HÀ NỘI UBND thành phố Hà Nội vừa xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước theo Kịch bản nguồn nước.
Hà Nội phấn đấu kiểm soát 90% hoạt động khai thác, sử dụng nước
Hà Nội xây dựng Bộ chỉ số phục vụ điều hành thời gian thực
Hà Nội triển khai xây dựng đô thị thông minh
Hà Nội quyết làm sạch, làm giàu dữ liệu đất đai trước 15/11
UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Công văn số 5054/UBND-NNMT, yêu cầu xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước phù hợp với kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình.
UBND thành phố Hà Nội vừa xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước theo kịch bản nguồn nước. Ảnh: Nguyễn Hà.
Theo chỉ đạo, Sở Nông nghiệp và Môi trường được giao nhiệm vụ cập nhật, đăng tải thường xuyên các quyết định công bố kịch bản nguồn nước lên Cổng thông tin điện tử của Sở, đồng thời xây dựng kế hoạch khai thác nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phù hợp với các Kịch bản nguồn nước đã được phê duyệt.
Công văn cũng yêu cầu Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp chặt chẽ với UBND các phường, xã trong việc kiểm soát khai thác nước dưới đất. Việc này nhằm hạn chế nguy cơ hạ thấp mực nước ngầm, sụt lún nền đất và xâm nhập mặn. Cùng với đó, các đơn vị liên quan phải tăng cường rà soát việc đăng ký, kê khai và cấp phép khai thác tài nguyên nước theo đúng quy định pháp luật.
Sở Xây dựng được giao xây dựng kế hoạch khai thác tài nguyên nước phục vụ sản xuất và cấp nước sinh hoạt, đảm bảo đồng bộ với các kịch bản nguồn nước hiện hành.
Đáng chú ý, UBND các địa phương cơ sở sẽ chịu trách nhiệm kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động khai thác nước dưới đất tại các khu vực cấm hoặc hạn chế, theo đúng quy định tại Nghị định số 53/2024/NĐ-CP và Nghị định số 54/2024/NĐ-CP của Chính phủ. Các trường hợp chưa kê khai, đăng ký khai thác sẽ bị đôn đốc xử lý, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về tài nguyên nước và hành nghề khoan nước dưới đất.
Song song với công tác triển khai tại cơ sở, Thành phố cũng yêu cầu đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm nước, sử dụng hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí nguồn tài nguyên quý giá này.
Cùng với đó, Trung tâm Truyền thông, Dữ liệu và Công nghệ số Thành phố được giao nhiệm vụ cập nhật liên tục kịch bản nguồn nước lên Cổng thông tin điện tử của thành phố, đảm bảo thông tin luôn được công khai minh bạch theo đúng quy định tại khoản 6 Điều 41 Nghị định 53/2024/NĐ-CP.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/
|
Hiện vùng Đông Gia Lai (Bình Định cũ) còn 12 hồ chứa đã xuống cấp, nguy cơ mất an toàn; đây là nỗi lo lớn của ngành chức năng khi mùa mưa lũ cận kề…
Quảng Trị khẩn trương sơ tán dân, bảo vệ mùa màng và an toàn hồ đập
Trực 24/24 tại các công trình thủy lợi mùa mưa bão
Hồ, đập lớn trước mùa mưa lũ: Giữ 'xanh' nguồn nước từ đập Bái Thượng
Nhiều hồ chứa tiềm ẩn nguy cơ
Theo ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai, sau sáp nhập, tỉnh Gia Lai mới có 283 hồ chứa lớn nhỏ; trong đó, có 87 hồ chứa có quy mô lớn, 49 hồ vừa và 147 hồ nhỏ. Riêng vùng Đông Gia Lai (tỉnh Bình Định cũ) có 164 hồ chứa; trong đó, có 62 hồ có quy mô lớn, 37 hồ vừa và 65 hồ nhỏ; có 36 hồ chứa có cửa van và 128 hồ có tràn tự do.
Qua công tác kiểm tra an toàn hồ đập trước mùa bão lũ năm 2025, ngành chức năng Gia Lai phát hiện trên địa bàn còn nhiều hồ chứa vừa và nhỏ do xây dựng cách đây đã hơn 40 năm, từ đó đến nay các đập đất chưa được gia cố mái thượng lưu, nền và thân đập bị thấm, kích thước mặt cắt ngang không đảm bảo do bị sạt trượt, không có vật thoát nước hạ lưu đập.
Thêm vào đó, tràn xả lũ chủ yếu là tràn tự nhiên nên bị xói lở phía hạ lưu; một số tràn làm bằng bê tông hoặc đá xây do “tuổi tác” đã cao nên hiện cũng đã hư hỏng, bong tróc vữa xây các tường cánh, bể tiêu và mái kênh xả sau tràn bị xói lở.
Hiện ở vùng Đông Gia Lai còn 12 hồ chứa nhỏ xuống cấp, nguy cơ mất an toàn; trong đó, có 11 hồ phải hạn chế tích nước và 1 hồ không được tích nước. Ảnh:V.Đ.T.
Cống lấy nước loại cống nút chai bị hư hỏng, rò rỉ dọc thân cống, khó vận hành; đối với các cống có van đóng mở qua nhiều năm sử dụng giờ cũng thường bị kẹt, rò rỉ nước. Đường quản lý vận hành hồ kết hợp cứu nạn, cứu hộ hầu hết là đường đất, nhỏ hẹp, khó đi lại, thường bị chia cắt khi có mưa lũ. Nhà quản lý công trình đầu mối hầu hết còn thiếu hoặc được xây dựng từ lâu hiện đã bị xuống cấp, hư hỏng; không có trang thiết bị phục vụ quản lý, nếu có chủ yếu là thủ công, chưa đáp ứng công tác quản lý, bảo vệ công trình.
“Trong 164 hồ chứa ở vùng phía Đông Gia Lai, trong đó có 62 hồ chứa lớn và 1 hồ chứa vừa do Công ty TNHH Khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL) Bình Định quản lý, vận hành; Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh quản lý 2 hồ chứa nhỏ; các địa phương quản lý 99 hồ, trong đó, có 36 hồ chứa vừa và 63 hồ chứa nhỏ”, ông Vũ Ngọc An cho hay.
Hồ chứa nhỏ, nỗi lo lớn
Kết quả kiểm tra an toàn hồ đập của ngành chức năng tỉnh Gia Lai cho thấy, trong 63 hồ chứa do Công ty TNHH KTCTTK Bình Định quản lý; trong đó, có 32 hồ được đánh giá an toàn mức A, 31 hồ được đánh giá an toàn mức B. Hai hồ chứa nhỏ do Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh quản lý được đánh giá an toàn mức B. Trong 99 hồ do các địa phương quản lý có 28 hồ được đánh giá an toàn mức A, 61 hồ được đánh giá an toàn mức B; đặc biệt, trong đó có 12 hồ chứa nhỏ được đánh giá nguy cơ mất an toàn cao; phải hạn chết tích nước 11 hồ, 1 hồ không được tích nước là hồ Bàu Sen ở xã Bình Phú.
“Trong 12 hồ có nguy cơ mất an toàn cao, hiện có 2 hồ Hóc Quăn và Thuận An đã được bố trí vốn sửa chữa, nâng cấp; 10 hồ còn lại là các hồ: Lòng Bong, Nam Hương, Bàu Dài, Bàu Sen, Hòa Mỹ, Hóc Bông, Hóc Sanh, Thủy Dé, Hóc Huy… chưa được bố trí kinh phí; riêng hồ Bàu Sen hiện do xuống cấp nghiêm trọng, không được tích nước hiện ngành chức năng Gia Lai đang đề xuất nguồn vốn sửa chữa từ quỹ phòng chống thiên tai của tỉnh”, ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai cho hay.
Giai đoạn 2021-2025, vùng Đông Gia Lai đã có nhiều nỗ lực nâng cấp, sửa chữa 12 hồ chứa nước. Ảnh: V.Đ.T.
Cũng theo ông An, trong 63 hồ chứa do Công ty TNHH KTCTTL Bình Định quản lý có 38 hồ có đập bị thấm; trong đó thấm nặng 6 hồ, gồm: Hồ Thạch Khê bị thấm nền chân đập, hồ Hóc Mít bị thấm nền, hồ Cây Sung bị thấm vai phải cống lấy nước, hồ Tân Thắng bị thấm mái đập, hồ Hòn Lập bị thấm vai phải và giữa đập; 2 hồ bị biến dạng mái đập do sạt lở, trượt mái thượng và hạ lưu là hồ Phú Hà và hồ Tam Sơn; 3 hồ bị xói lở thân tràn, đuôi tràn và bể tiêu năng là các hồ An Đỗ, Hóc Cau và Văn Khánh Đức.
Các hồ do địa phương quản lý nhiều đập bị thấm, nhiều nhất là tại huyện Phù Mỹ cũ với 16 hồ; trong đó thấm nặng là 2 hồ Bàu Bạn và Thuận An; 10 hồ bị hư hỏng thân cống; huyện Tây Sơn cũ cũng có 13 hồ có đập bị thấm, trong đó có 7 hồ bị thấm nặng là Bàu Sen, Hóc Bông, Nam Hương, Hòa Mỹ, Truông Ổi, Bàu Làng, Bàu Năng…, hều hết trà xả lũ chưa được gia cố kiên cố.
“Giai đoạn 2021-2025, vùng Đông Gia Lai (tỉnh Bình Định cũ) đã có nhiều nỗ lực nâng cấp, sửa chữa nhiều công trình hồ chứa; trong đó có các hồ Cây Điều, Hóc Hảo, Đồng Quang, Đá Bàn, Nhà Hố, Giàn Tranh, Chánh Hùng, Đá Vàng, Cây Thích, Suối Cầu, Hải Nam, Hóc Thánh, 12 hồ chứa nói trên cùng khởi công vào tháng 9/2023 và đã hoàn thành trong tháng 5/2025”, ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai cho hay.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển thủy lợi
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển thủy lợi phục vụ nông nghiệp luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và đời sống của người nông dân.
Người từng nhấn mạnh: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh”. Suốt 80 năm qua, công tác phát triển thủy lợi luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chăm lo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm công trường đại thủy nông Bắc Hưng Hải ngày (25/12/1958). Ảnh: hochiminh.vn
Ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc phục hồi và phát triển nền nông nghiệp nước nhà, trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất là công tácthủy lợi.
Ngày 29/2/1948, Người chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn và ra nghị quyết một số việc, trong đó có việc thủy nông, sửa chữa và vét máng nước, làm thêm đê đập và máng nước cho tỉnh Phú Thọ, Thái Bình, tiếp tục đặt bơm nước ở Đô Lương, nghiên cứu và đặt ống nước bằng nứa ở Việt Bắc để làm vụ chiêm năm 1948.
Tháng 2/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ thành lập Hội đồng thủy nông để giúp việc đê điều và các công tác thủy nông.
Đầu năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường Máng số 7, một công trình thủy lợi lớn của tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Nói chuyện với gần 2.000 cán bộ và dân công trên công trường, Người nói: “Ta có ruộng, phải biến ruộng đó thành thóc gạo. Muốn có thóc gạo phải cấy lúa, muốn lúa tốt phải có đủ nước, nhiều phân, giống tốt. Vì vậy, ta phải làm thủy lợi, phải cố gắng để chủ động trong tưới tiêu.
Bắc Hưng Hải - "Con rồng vàng" đánh thức vùng đồng bằng rộng lớn
Để giải quyết tình trạng “mười năm chín hạn”, “sống ngâm da, chết ngâm xương” cho các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Đảng, Nhà nước quyết định xây dựng đại thủy nông Bắc Hưng Hải. Đây là một hệ thống kênh, đập, trạm bơm, đê điều nhằm phục vụ việc tưới tiêu và thoát úng cho một vùng tứ giác nước được giới hạn bởi sông Hồng ở phía Tây, sông Đuống ở phía Bắc, sông Thái Bình ở phía Đông, và sông Luộc ở phía Nam. Mỗi tỉnh/thành Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương đều có một phần địa bàn của mình trong tứ giác này.
Cống Xuân Quan lấy nước từ sông Hồng vào hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải được xây dựng từ ý Đảng, lòng dân. Ảnh: Quang Dũng.
Tổng chiều dài của hệ thống kênh chính là 200 km. Nước tưới được lấy từ sông Hồng chủ yếu qua cống Xuân Quan. Nước tiêu chủ yếu qua các cống Cầu Xe, An Thổ. Ngoài ra còn có một số trạm bơm kết hợp tưới - tiêu trực tiếp với các sông lớn tại những vùng hẹp ven các sông Đuống, Luộc, Thái Bình.
Ngày 1/10/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bổ nhát cuốc đầu tiên tại công trường thi công cống Xuân Quan (Hưng Yên), mở đầu việc xây dựng công trình đại thủy nôngBắc Hưng Hải. Chỉ sau 7 tháng thi công, ngày 1/5/1959 công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải đã hoàn thành ngoài mong đợi với khối lượng công việc khổng lồ: Xây đúc 7.500m3 bê tông, xây lát đá 226.000m3, đào gần 3.000.000 m3 đất. Công trình bảo đảm cung cấp nước tưới cho hơn chục nghìn ha lúa, hoa màu, cây công nghiệp và tiêu úng cho gần 20.000 ha lưu vực.
Trong quá trình chuẩn bị và xây dựng hệ thống thủy lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 4 lần trực tiếp đến kiểm tra, thăm hỏi, động viên cán bộ và dân công làm việc trên công trường. Có lần, mặc dù trời mưa nặng hạt, đường lầy lội, Bác vẫn đến thăm anh em dân công đang đào kênh dẫn nước phía ngoài cống Xuân Quan.
Nói chuyện với khoảng 3 vạn dân công, công nhân, cán bộ trên công trường, Người nhấn mạnh: “Việc xây dựng công trình đại thủy lợi Bắc Hưng Hải là một chiến dịch. Trong chiến dịch này, ta phải có tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Các đảng viên, đoàn viên, thanh niên, công nhân, cán bộ phải làm gương mẫu. Phải cố gắng làm thế nào đảm bảo có đủ nước cho vụ chiêm sắp tới được thắng lợi, đem lại no ấm cho đồng bào”. Thực tế, mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành hiện thực.
Ông Trịnh Thế Trường - Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải chia sẻ: “Việc xây dựng hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải là mục tiêu quốc gia, qua đó đáp ứng yêu cầu tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp”.
Ông Trịnh Thế Trường (giữa) và ông Nguyễn Văn Kình - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên chia sẻ với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường về ý nghĩa, tầm quan trọng của hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải. Ảnh: Quang Dũng.
Không chỉ đối mặt với hạn hán, người dân trong vùng “tứ giác” Bắc Hưng Hải thời điểm ấy còn thường xuyên hứng chịu cảnh “chiêm khê mùa thối”, canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Vào vụ xuân thì không có nước để cày cấy, thậm chí khi cấy lúa xong rồi vẫn phải “lạy trời cho mưa”. Năm 1995, năng suất lúa bình quân chỉ đạt khoảng 1,3 tấn/ha, rất thấp.
Và, điều đáng mừng là khi hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải được đưa vào sử dụng, nước chảy đến đâu bà con mở mang diện tích trồng trọt đến đó, năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng lên. Đến nay, năng suất lúa bình quân trong vùng phục vụ của hệ thống đạt hơn 60 tạ ha/năm. Nhiều người ví Bắc Hưng Hải chính là “con rồng vàng” làm trỗi dậy một vùng châu thổ rộng lớn.
Ông Nguyễn Văn Kình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên, cũng chia sẻ, hệ thống Bắc Hưng Hải có vai trò rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên nói riêng và 4 địa phương trong vùng phục vụ của hệ thống nói chung.
Rốn ngập Nam Hà thành vựa lúa trù phú
Tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Làm thủy lợi phải là phong trào toàn dân. Xã này với xã khác, huyện này với huyện khác, tỉnh này với tỉnh khác, đều có liên quan với nhau, phải cùng làm, phải thảo luận với nhau, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, không nên chỉ nhìn thấy lợi ích của nơi mình và để thiệt hại cho nơi khác”, đặc biệt, phải định hướng đúng phương châm của Chính phủ: giữ nước là chính, thủy lợi hạng nhỏ là chính và nhân dân tự làm là chính”.
Sau thành công của hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, nhiều công trình thủy nông ở miền Bắc được quan tâm đầu tư. Đặc biệt là hệ thống 6 trạm bơm điện Bắc Nam Hà, giải quyết tình trạng ngập úng cho “rốn ngập” các tỉnh Hà Nam, Nam Định cũ (nay là tỉnh Ninh Bình).
Sắc xanh bạt ngàn trên công trình thủy lợi Bắc Nam Hà. Ảnh: Quang Dũng.
Ông cha ta có câu "Bụt Nam Sang còn chê oản chiêm", như minh chứng cho nỗi thống khổ của người dân xứ này trước thiên tai.
Theo nhà nông học Bùi Huy Đáp trong cuốn "Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ", Nam Sang là huyện cổ của vùng đồng chiêm Nam Định và khu đồng trũng của huyện Lý Nhân, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (nay là tỉnh Ninh Bình). Trước đây, khu vực này chỉ cấy được vụ lúa chiêm, còn các vụ khác thì bỏ hóa, nước ngập mênh mông, đi lại chỉ bằng thuyền.
Để giải quyết bài toán úng lụt, giúp nhân dân thâm canh tăng vụ, dẫu trong thời kỳ kháng chiến đang ở giai đoạn khốc liệt, miền Bắc hứng chịu những thiệt hại to lớn, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đề nghị Chính phủ Liên Xô hỗ trợ để xóa bỏ vùng trũng này.
Đáp lại đề nghị đó, đoàn chuyên gia Liên Xô đã sang nghiên cứu khảo sát. Năm 1962, lần đầu tiên toàn bộ khu vực phía bắc tỉnh Nam Hà (cũ) được nghiên cứu lập quy hoạch tiêu thoát nước để phát triển sản xuất (gọi tắt là Quy hoạch 1962).
Những vùng đất 'mười năm chín hạn' ở Hải Dương, Hưng Yên hay 'rốn ngập' Nam Hà vùng đồng bằng sông Hồng đã được 'đánh thức' nhờ nguồn nước từ hệ thống thủy lợi, trở thành những vùng sản xuất nông nghiệp trù phú.
Căn cứ vào điều kiện địa hình, Quy hoạch 1962 (tiền thân của hệ thống thủy lợiBắc Nam Hà) đã xác định toàn vùng có khoảng 77.500ha trũng thấp chỉ cấy được 1 vụ lúa chiêm, bắt buộc phải tiêu bằng động lực. Số diện tích còn lại là gần 7.900ha bao gồm 6 xã khu vực bắc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (gần 2.400ha) và khu vực Độc Bộ thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (gần 5.500ha) là vùng đất cao tiêu tự chảy ra sông Châu và sông Đáy.
Từ năm 1964 đến năm 1972, với sự giúp đỡ của Chính phủ Liên Xô, 6 trạm bơm điện lớn đã được Nhà nước đầu tư xây dựng là Cốc Thành, Cổ Đam, Hữu Bị, Vĩnh Trị, Nhâm Tràng và Như Trác tạo thành Hệ thống 6 trạm bơm điện lớn Bắc Nam Hà hay còn gọi Hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà.
Chỉ tay vào tấm bản đồ hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà, ông Trần Văn Dũng - Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Nam Hà chỉ cho chúng tôi nơi những dòng kênh thủy lợi đi qua hiện lên như những bức tường bằng nước đang ngày đêm bảo vệ khu vực trũng nhất đồng bằng Bắc Bộ trước những cơn “giận dữ” của thiên nhiên. Ông bảo, cứ mỗi lần mưa lớn là hệ thống lại được vận hành, nhanh chóng bơm tốc lực để chống ngập cả vùng”, ông Dũng nói.
Kiến tạo những kho nước vùng trung du, miền núi
PGS. TS Đỗ Văn Thành, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong giai đoạn 1961 - 1975, nhiều hồ chứa ở trung du miền núi cũng được xây dựng để tích nước vào mùa mưa, giảm lũ, cung cấp nước tưới, nước sinh hoạt, điển hình là hồ Nậm Rốm (tỉnh Điện Biên) năm 1963.
Trong giai đoạn 1965 - 1975, thủy lợi vừa phải bảo vệ, ngụy trang, sửa chữa các công trình, vừa tập trung phát triển thủy lợi ở miền núi, trung du. Đây là giai đoạn có nhiều cán bộ thủy lợi và nhân dân hy sinh trong quá trình bảo vệ và xây dựng các công trình thủy lợi.
Nhiều hệ thống công trình được đầu tư xây dựng như hồNúi Cốc(tỉnh Thái Nguyên), hồ Cấm Sơn (tỉnh Bắc Giang cũ, nay là tỉnh Bắc Ninh), hồ Đồng Mô (tỉnh Vĩnh Phúc cũ và Hà Nội, nay thuộc địa bàn Thành phố Hà Nội), hồ Sông Mực, hồ Núi Một (tỉnh Thanh Hóa), kênh tiêu Vách Bắc (tỉnh Nghệ An), hồ Trung Thuần (tỉnh Quảng Bình cũ, nay là tỉnh Quảng Trị).
Bên cạnh đó, ngành thủy lợi xây dựng những công trình vừa làm nhiệm vụ phát điện, vừa giải quyết nước tưới, tiêu úng, chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ. Tính đến năm 1975, miền Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác được hơn 1.300 công trình thủy nông, hệ thống thủy lợi có thể tưới cho 1,1 triệu ha và tiêu cho 720.000 ha.
Nguồn: mae.gov.vn
|
Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường quán triệt mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, nâng cao vị thế ngành.
Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030
Truyền hình trực tiếp: Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030
Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường với 4 đột phá chiến lược
Sáng 14/8, Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã diễn ra long trọng. Sự kiện có sự tham dự và chỉ đạo của đồng chí Trần Hồng Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ.
Tham dự Đại hội có lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương; nguyên lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và 259 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 10.000 đảng viên thuộc 82 tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Các đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Tùng Đinh.
Sự kiện sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ Bộ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”, Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong việc thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu của ngành Nông nghiệp và Môi trường đến năm 2030; nỗ lực, sáng tạo, tự tin vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Quyền Bộ trưởng nhấn mạnh Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I là sự kiện sinh hoạt chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường nói riêng và của toàn ngành nói chung.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Bộ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu khai mạc Đại hội. Ảnh: Tùng Đinh.
Vì vậy, các đồng chí đại biểu dự Đại hội cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, phát huy cao nhất vai trò đại diện ý chí, nguyện vọng của các cấp ủy Đảng và hơn 10.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ, quán triệt và nhận thức sâu sắc phương châm Đại hội, tích cực đóng góp vào thành công của Đại hội.
Với khát vọng phát triển mạnh mẽ và quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng bộ phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, thống nhất, trách nhiệm sâu sắc trước Đảng và nhân dân, phát huy phẩm chất, năng lực, khát vọng cống hiến, đổi mới của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động trong toàn ngành, quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu của ngành Nông nghiệp và Môi trường đến năm 2030, góp phần thiết thực kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước.
Thay mặt Đoàn chủ tịch, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Bộ đã trình bày Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Dự thảo Báo cáo chính trị đã tóm tắt, phác họa bức tranh toàn cảnh về những thành tựu nổi bật, thách thức còn tồn đọng và định hướng phát triển chiến lược của Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời mở ra tầm nhìn đầy triển vọng cho giai đoạn 2025-2030.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Bộ trình bày Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Tùng Đinh.
Theo đó, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ Bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện các mặt công tác, đạt nhiều kết quả quan trọng, bám sát các quan điểm, mục tiêu của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng. Các nghị quyết, chương trình hành động được cụ thể hóa, triển khai đồng bộ, góp phần giữ vững vai trò chủ lực của ngành trong phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Thứ trưởng, thành tựu đạt được là kết quả của đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Trung ương, sự đồng lòng, nỗ lực của cán bộ, đảng viên, cùng sự phối hợp, ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, các địa phương, doanh nghiệp và nhân dân.
Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Bộ cho biết, trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác xây dựng Đảng được đặc biệt coi trọng. Công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức được duy trì thường xuyên, góp phần tạo sự đoàn kết, đồng thuận cao, động viên cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tổ chức bộ máy được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; công tác bảo vệ chính trị nội bộ được đặt lên hàng đầu. Hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được triển khai liên tục. Công tác dân vận và lãnh đạo các đoàn thể được đổi mới, tăng cường khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh kết quả đạt được, ngành vẫn đối mặt nhiều hạn chế, trong đó một số quy định pháp luật chưa sát thực tiễn, phải sửa đổi trong thời gian ngắn. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa có đột phá; hệ thống cơ sở dữ liệu nông nghiệp, môi trường chưa hoàn thiện, còn phân tán, thiếu kết nối. Đồng thời, chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp chưa có chuyển biến rõ nét; Phát triển nông nghiệp vẫn còn yếu tố thiếu bền vững, chậm chuyển đổi từ tư duy sản xuất sang kinh tế nông nghiệp; Dịch vụ logistics, công nghiệp chế biến sâu chưa phát triển mạnh.
Ngoài ra, trong quản lý tài nguyên, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, mô hình kinh tế xanh, tuần hoàn còn tự phát. Ô nhiễm môi trường tại một số cụm công nghiệp, sông nội đô, làng nghề vẫn chưa cải thiện rõ rệt.
Định hướng nhiệm kỳ 2025 – 2030
Nhiệm kỳ mới diễn ra trong bối cảnh thế giới tiếp tục biến động sâu sắc, cạnh tranh kinh tế, chính trị gia tăng, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống tác động tiêu cực. Trong nước, sau 40 năm đổi mới, vị thế ngành Nông nghiệp và Môi trường được củng cố, giữ vai trò quan trọng trong phát triển bền vững.
Các đại biểu thống nhất cao với các chương trình của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Khương Trung.
Trên cơ sở đó, Đảng bộ Bộ xác định các quan điểm lớn, đó là: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba trụ cột gắn bó mật thiết; Phát triển kinh tế tập thể cả về số lượng và chất lượng, gắn với kinh tế xanh, tuần hoàn, tri thức; Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên đa mục tiêu, coi đây là nguồn lực quốc gia; Bảo vệ môi trường là mục tiêu và nội dung cốt lõi của phát triển bền vững; không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng đơn thuần; Ứng phó biến đổi khí hậu là trách nhiệm toàn xã hội, hướng tới trung hòa carbon, đóng góp vào mục tiêu toàn cầu; Quản lý, khai thác bền vững tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, thúc đẩy kinh tế biển gắn với bảo vệ hệ sinh thái.
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 hướng đến mục tiêu đến năm 2030 ngành đạt tới nền nông nghiệp hiện đại, năng suất, chất lượng cao, thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á và top 15 thế giới; đảm bảo an ninh lương thực, duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu. Song song, ngành chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải, ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, hướng tới nền kinh tế xanh.
Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đóng góp trên 50% tăng trưởng ngành; Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh để huy động nguồn lực, xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống; Hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cơ bản hiện đại; tiềm năng kinh tế biển được phát huy tối đa.
Các giải pháp trọng tâm cho 4 đột phá chiến lược
Báo cáo chính trị của Bộ cũng chỉ ra các giải pháp để đạt được những mục trong thời gian tới, đó là trong lĩnh vực nông nghiệp, ngành tiếp tục triển khai các chiến lược, quy hoạch đã được phê duyệt, tập trung gỡ “thẻ vàng” EC, hoàn thiện tiêu chuẩn quản lý chất lượng, phát triển logistics và chế biến sâu, thúc đẩy kinh tế tư nhân, khởi nghiệp sáng tạo, xây dựng nông thôn mới gắn đô thị hóa và bảo vệ môi trường.
Toàn cảnh Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường diễn ra sáng 14/8. Ảnh: Tùng Đinh.
Trong quản lý tài nguyên, môi trường, ngành tiếp tục hoàn thiện pháp luật đất đai, khai thác hợp lý tài nguyên khoáng sản, nước; triển khai chiến lược kinh tế biển, quy hoạch không gian biển; mở rộng khu bảo tồn thiên nhiên, di sản.
Về ứng phó biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn, thủy lợi, ngành sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu khí hậu, quản lý tín chỉ carbon, đầu tư hạ tầng thủy lợi đa mục tiêu, tăng cường dự báo, cảnh báo thiên tai, phân cấp mạnh mẽ cho địa phương.
Đặc biệt, trong công tác xây dựng Đảng tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính trị tư tưởng, thực hiện nghiêm học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao công tác dân vận.
Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ cũng đưa ra bốn đột phá chiến lược được xác định gồm: hoàn thiện thể chế để khơi thông nguồn lực; thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại; xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng dụng nhân tài.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp khẳng định, với quyết tâm cao, Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu trong phát triển nông nghiệp, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Nguồn: nongnghiepvamoitruong.vn
|
Ngày 6/8, Cục Quản lý tài nguyên nước có Văn bản số 1779/TNN-MC gửi các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk về việc vận hành các hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk ứng phó với mưa, lũ trong mùa lũ năm 2025.
Hiện nay, lưu vực sông Srêpốk đã bước sang thời gian mùa lũ theo Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1612/QĐ-TTg ngày 13/11/2019 (sau đây gọi là Quy trình vận hành liên hồ chứa). Để chủ động phòng ngừa, hạn chế tối đa những thiệt hại do mưa, lũ gây ra, đảm bảo an toàn phòng lũ, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước, Cục Quản lý tài nguyên nước đề nghị các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk tổ chức, thực hiện các nội dung sau:
Theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến khí tượng thủy văn, thực hiện chế độ quan trắc, dự báo, cung cấp thông tin, số liệu và chế độ báo cáo theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa. Tuân thủ nghiêm túc quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và lệnh vận hành hồ của cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Đồng thời chủ động, sẵn sàng các phương án khi xuất hiện các tình huống bất thường trong quá trình vận hành công trình, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình, hạn chế thiệt hại đến mức thấp nhất về người và tài sản do lũ gây ra cho nhân dân vùng hạ du; chuẩn bị đầy đủ nguồn lực (gồm nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị) để ứng phó với các tình huống bất thường có thể xảy ra.
Vận hành các hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk ứng phó với mưa, lũ trong mùa lũ năm 2025. Ảnh minh họa. (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Khi xuất hiện các tình huống bất thường, tình huống mưa, lũ vượt tần suất thiết kế thì phải đề xuất phương án vận hành hồ chứa và báo cáo ngay tới cơ quan có thẩm quyền theo quy định để xem xét, quyết định việc vận hành bảo đảm an toàn công trình, vận hành ứng phó các tình huống khẩn cấp; tăng cường thực hiện việc thông báo, cảnh báo sớm cho chính quyền địa phương các cấp, nhân dân và các hoạt động có liên quan trên sông suối ở khu vực hạ lưu đập, nhà máy vùng thượng, hạ lưu trước khi vận hành xả lũ qua tràn, xả lũ khẩn cấp, bắt đầu xả nước phát điện hoặc các trường hợp gia tăng đột ngột lưu lượng xả về hạ du.
Phối hợp chặt chẽ với Công ty TNHH MTV vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) và các Trung tâm điều độ hệ thống điện trong việc thực hiện huy động hiệu quả nguồn điện của các nhà máy thủy điện phù hợp với yêu cầu về vận hành giảm lũ cho hạ du, bảo đảm sử dụng nguồn nước an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, đa mục tiêu.
Các hồ chứa phía thượng và hạ lưu phải thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin vận hành, kết quả dự báo lưu lượng, mực nước hồ và các phương án điều tiết vận hành để bảo đảm công tác phối hợp, vận hành điều tiết cắt, giảm lũ (trường hợp xảy ra mưa lũ) được thực hiện hiệu quả, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho nhân dân vùng hạ du. Đồng thời, thực hiện việc cung cấp thường xuyên, kịp thời số liệu vận hành hồ chứa tối thiểu 01 giờ/lần (khi có dự báo, cảnh báo bão khẩn cấp, áp thấp nhiệt đới gần bờ hoặc các hình thế thời tiết khác gây mưa lũ) lên Hệ thống quản lý dữ liệu vận hành hồ của Cục Quản lý tài nguyên nước (https://quanly.dwrm.gov.vn/hochua) phục vụ công tác theo dõi, giám sát và dự báo, cảnh báo mưa lũ trên các lưu vực sông.
Ngoài ra, để đảm bảo phục vụ công tác dự báo khí tượng thủy văn trên các lưu vực sông, đề nghị các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa cung cấp ngay các bản tin dự báo và số liệu quan trắc, tính toán theo quy định của các Quy trình vận hành liên hồ chứa về Cục Khí tượng Thủy văn qua địa chỉ hòm thư điện tử:
Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.
.
Nguồn: bonongnghiepvamoitruong.vn
|
|