UBND tỉnh có thẩm quyền công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt đối với các công trình nằm trên địa bàn hai tỉnh trở lên.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 136/2025/NĐ-CP quy định phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Cụ thể hóa thẩm quyền, tăng tính chủ động cho địa phương
Nghị định này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường (trừ lĩnh vực đất đai) được quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ cần điều chỉnh để thực hiện phân cấp, phân quyền.
Trong đó, Nghị định nêu rõ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật (chương II); lĩnh vực chăn nuôi và thú y (chương III); thủy sản và kiểm ngư (chương IV); lâm nghiệp và kiểm lâm (chương V); lĩnh vực thủy lợi (chương VI); lĩnh vực tài nguyên nước (chương IX); lĩnh vực môi trường (chương XI); bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (chương XIII); khí tượng thủy văn (chương XIV); quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo (chương XV); lĩnh vực viễn thám (chương XVI);
Phân cấp trong lĩnh vực quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (chương VIII).
Phân quyền trong lĩnh vực đê điều (chương VII); lĩnh vực địa chất và khoáng sản (chương X); biến đổi khí hậu (chương XII); lĩnh vực đo đạc và bản đồ (chương XVII).
UBND tỉnh công bố danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp đối với nguồn nước mặt liên tỉnh
Đáng chú ý, chương IX của Nghị định quy định về phân cấp, phân quyền lĩnh vực tài nguyên nước nêu rõ, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong lĩnh vực tài nguyên nước phân quyền, phân cấp cho UBND cấp tỉnh thực hiện.
Theo đó, UBND cấp tỉnh được Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường phân quyền thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng gồm: xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt đối với các công trình có vùng bảo hộ nằm trên địa bàn từ hai tỉnh trở lên; và lập, công bố, điều chỉnh danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp đối với nguồn nước mặt liên tỉnh.
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm lập danh mục trên địa bàn tỉnh mình, kể cả trong trường hợp các hồ, ao, đầm, phá trải dài qua hai tỉnh trở lên. Ảnh: Minh Hoàng.
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm lập danh mục trên địa bàn tỉnh mình, kể cả trong trường hợp các hồ, ao, đầm, phá trải dài qua hai tỉnh trở lên. Ảnh: Minh Hoàng.
Đối với nhiệm vụ thứ hai, trình tự thực hiện được quy định cụ thể, theo đó UBND cấp tỉnh có trách nhiệm lập danh mục trên địa bàn tỉnh mình, kể cả trong trường hợp các hồ, ao, đầm, phá trải dài qua hai tỉnh trở lên.
Quá trình xây dựng danh mục phải có sự tham vấn ý kiến của các sở, ngành, tổ chức, cá nhân liên quan, cũng như lấy ý kiến các tỉnh có liên quan.
Sau khi tổng hợp và tiếp thu ý kiến, UBND cấp tỉnh sẽ phê duyệt danh mục và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và cổng thông tin điện tử.
Bên cạnh đó, UBND cấp tỉnh còn được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường phân cấp thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác trong lĩnh vực tài nguyên nước như: cấp, gia hạn, điều chỉnh, thu hồi giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất; chấp thuận phương án chuyển nước đối với một số loại dự án nhất định;
Phê duyệt, điều chỉnh và truy thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; cấp phép thăm dò và khai thác nước dưới đất và nước mặt có quy mô trung bình đến lớn (từ 3.000 đến dưới 5.000 m³/ngày đêm hoặc từ 2 đến dưới 10 m³/giây tùy theo loại công trình);
Quản lý các công trình ngăn sông, suối, kênh, mương phục vụ các mục tiêu tạo nguồn, chống ngập, ngăn mặn, tạo cảnh quan, với quy mô trung bình có chiều dài hoặc chiều rộng thông nước từ 50 đến dưới 100 mét;...
Bộ trưởng Bộ NN-MT ban hành tiêu chí bảo vệ môi trường nông thôn
Trong lĩnh vực môi trường, Nghị định quy định, nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ phân quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường và UBND cấp tỉnh.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ phân quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường thực hiện nhiệm vụ ban hành tiêu chí về bảo vệ môi trường trong xây dựng và phát triển nông thôn theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 58 Luật Bảo vệ môi trường; đồng thời, phê duyệt Quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 109 Luật này.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ ban hành kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 15 Luật Bảo vệ môi trường, cụ thể hóa tại điểm c khoản 1 Điều 19 của Luật và khoản 1 Điều 18 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.
Về phía Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhiều nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực môi trường cũng được phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện, trong đó có việc xây dựng kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường và khoản 1 Điều 18 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.
Đồng thời, UBND cấp tỉnh được giao chỉ đạo và tổ chức quản lý bùn nạo vét từ kênh, mương và công trình thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của địa phương, bảo đảm đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo khoản 7 Điều 61 Luật Bảo vệ môi trường. Ngoài ra, UBND cấp tỉnh còn có trách nhiệm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh theo khoản 5 Điều 79 của Luật.
Thủ tướng Chính phủ phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ ban hành kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng. Ảnh: Minh Hoàng.
Thủ tướng Chính phủ phân quyền cho UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ ban hành kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng. Ảnh: Minh Hoàng.
Đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng phân quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường và cấp giấy phép môi trường (nếu thuộc đối tượng cấp phép) đối với các dự án đầu tư vốn thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ, theo khoản 1 Điều 35 Luật Bảo vệ môi trường, trừ sáu nhóm trường hợp cụ thể:
Thứ nhất, Dự án đầu tư đã được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư (trừ dự án trên địa bàn từ 2 tỉnh trở lên nhưng đã giao cho một UBND cấp tỉnh hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm cơ quan quyết định đầu tư);
Thứ hai, Dự án thuộc thẩm quyền cấp giấy phép về khai thác khoáng sản, tài nguyên nước, nhận chìm ở biển hoặc giao khu vực biển của Bộ Nông nghiệp và Môi trường;
Thứ ba, Dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung;
Thứ tư, Dự án có quy mô sử dụng đất, mặt nước lớn (trừ các dự án thủy điện, trồng cây hằng năm, cây lâu năm hoặc sản xuất cây giống nông nghiệp);
Thứ năm, Dự án đầu tư trong khu/cụm công nghiệp thuộc nhóm ngành có nguy cơ ô nhiễm cao như xử lý chất thải nguy hại, sử dụng phế liệu nhập khẩu, hoặc mở rộng cơ sở được miễn đấu nối có lưu lượng nước thải thuộc diện quan trắc định kỳ trở lên;
Thứ sáu, Dự án nằm ngoài khu/cụm công nghiệp nhưng thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm với mức công suất lớn được liệt kê tại Phụ lục II Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2025/NĐ-CP (trừ dự án chăn nuôi gia súc và cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm).
Nguồn: baonongnghiepmoitruong.vn
|
Không chỉ tối ưu vận hành, HEINEKEN Việt Nam tiên phong tái sử dụng nước, phục hồi rừng, hợp tác cộng đồng bảo vệ tài nguyên, hướng tới mục tiêu bù hoàn nước năm 2030.
Bà Phạm Thị Trúc Thanh, Giám đốc Phát triển Bền vững HEINEKEN Việt Nam chia sẻ tại Diễn đàn. Ảnh: Hồng Thủy.
Bà Phạm Thị Trúc Thanh, Giám đốc Phát triển Bền vững HEINEKEN Việt Nam chia sẻ tại Diễn đàn. Ảnh: Hồng Thủy.
Là một trong những ngành sử dụng nước nhiều nhất, ngành bia luôn đối mặt với thách thức kép: vừa đảm bảo hiệu quả vận hành, vừa phải bảo vệ nguồn nước cho hệ sinh thái và cộng đồng. Với HEINEKEN Việt Nam, những thách thức đó đã được biến thành động lực để đổi mới toàn diện theo hướng kinh tế tuần hoàn trong quản lý tài nguyên nước.
Chia sẻ tại Diễn đàn “Quản lý nguồn nước trong sản xuất công nghiệp Việt Nam 2025” do Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp cùng Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức sáng 6/6, bà Phạm Thị Trúc Thanh, Giám đốc Phát triển Bền vững HEINEKEN Việt Nam khẳng định, doanh nghiệp không chỉ tiếp cận nước như một yếu tố vận hành, mà còn coi đây là trọng tâm chiến lược trong phát triển bền vững. Đến năm 2030, HEINEKEN đặt mục tiêu bù hoàn 100% lượng nước tại các khu vực khan hiếm và nâng cao hiệu suất sử dụng nước xuống chỉ còn 2,6 hl/hl ở vùng khan hiếm và 2,9 hl/hl toàn cầu.
Tại nhà máy Bà Rịa - Vũng Tàu, HEINEKEN đã đầu tư hệ thống tái chế nước (WRP), giúp giảm hơn 50% lượng nước sử dụng so với năm 2016. Đặc biệt, 100% lượng nước thải từ các nhà máy đều được xử lý đạt chuẩn loại A trước khi trả về môi trường. Không chỉ dừng lại ở xử lý, HEINEKEN còn triển khai mô hình “tái sử dụng” trong nội bộ, sử dụng nước sau xử lý cho các công đoạn không tiếp xúc sản phẩm như làm mát, vệ sinh, tưới cây…
Hệ thống xử lý nước thải với công nghệ tiên tiến tại Nhà máy HEINEKEN VIỆT NAM (Vũng Tàu).
Hệ thống xử lý nước thải với công nghệ tiên tiến tại Nhà máy HEINEKEN VIỆT NAM (Vũng Tàu).
Song song đó, doanh nghiệp cũng chú trọng cải tiến tiêu chuẩn quản lý, tối ưu hóa quy trình kỹ thuật để tiết kiệm nước ở từng khâu sản xuất. “Chúng tôi không dừng ở việc đạt chuẩn, mà luôn hướng tới vượt chuẩn, làm tốt hơn kỳ vọng", bà Phạm Thị Trúc Thanh nói.
Theo bà Trúc Thanh, kinh tế tuần hoàn không thể thành công nếu chỉ diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp. HEINEKEN đã hợp tác với nhà cung cấp và nông dân địa phương để áp dụng tiêu chuẩn canh tác bền vững, giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước từ nông nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng nước từ đầu chuỗi.
Với cộng đồng, công ty nghiên cứu sâu về thách thức nguồn nước tại địa phương, đánh giá rủi ro (SVA), và triển khai các dự án cân bằng nước. Riêng tại lưu vực sông Tiền, HEINEKEN đã trồng hơn 847.000 cây, phục hồi hơn 1.100 ha rừng, hỗ trợ sinh kế cho 4.200 hộ dân và bù hoàn hơn 690 triệu lít nước. Năm 2022, công ty cùng chính phủ Việt Nam đầu tư 30 tỷ đồng cho các khu bảo tồn như Xuân Sơn, Đồng Nai và Đồng Tháp Mười.
Tuy nhiên, bà Thanh cũng thẳng thắn chia sẻ, dù công nghệ tái sử dụng nước đã có nhiều tiến bộ, để phát triển sâu và bền vững hơn, chúng ta vẫn cần tiếp tục cải tiến. Đồng thời, sự phối hợp giữa khu vực công và tư cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, bởi chỉ có hợp tác toàn diện mới giúp các giải pháp được thực thi hiệu quả và duy trì lâu dài.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
YÊN BÁI Từ ngày được sử dụng nước sạch, sức khỏe trẻ em và phụ nữ được cải thiện hơn nhiều. Đó là chia sẻ của người dân thôn Ao Sen, xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn.
Sức khỏe cải thiện nhờ nguồn nước sạch
Với người dân thôn Ao Sen, xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn (Yên Bái), công trình cấp nước tập trung được Nhà nước đầu tư xây dựng tại thôn Bản Tạo không đơn thuần là một hệ thống dẫn nước mà còn là nguồn “nước sạch” quý giá, là cả một “mạch sống” mới. Nguồn nước được lấy từ khe suối đầu nguồn trên rừng, lọc qua hệ thống đảm bảo vệ sinh rồi dẫn về từng hộ, phục vụ cho 540 hộ dân thuộc các thôn Bản Tạo, Đồng Sặt, Văn Tứ, Ao Sen, Thác Vác...
Công trình cấp nước tập trung được đầu tư xây dựng tại thôn Bản Tạo cung cấp nước cho 540 hộ dân. Ảnh: Thanh Ngà.
Công trình cấp nước tập trung được đầu tư xây dựng tại thôn Bản Tạo cung cấp nước cho 540 hộ dân. Ảnh: Thanh Ngà.
Cách đây hơn 10 năm, khi chưa có công trình nước hợp vệ sinh, người dân chủ yếu sử dụng nước từ suối hoặc tự đào giếng quanh nhà. Những dòng suối lẫn lá rừng, đất đỏ, nhiều khi đục ngầu sau mỗi trận mưa. Nguồn nước giếng dễ bị ô nhiễm bởi phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải sinh hoạt ngấm xuống lòng đất. Việc có nước để dùng đã là khó, nói gì đến nước hợp vệ sinh.
Nhớ lại khoảng thời gian đó, ông Hoàng Hữu Duyên, người dân thôn Ao Sen, xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn chia sẻ, khi chưa có nước hợp vệ sinh để sử dụng, người dân trong thôn thường xuyên mắc các bệnh như đau mắt đỏ, ngứa, mẩn đỏ, lở loét. Tình trạng đó chủ yếu do nguồn nước không đảm bảo vệ sinh gây ra. Kể từ khi được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh dẫn từ đầu nguồn trên rừng về, sức khỏe của người dân đã thay đổi rõ rệt. Các bệnh kể trên gần như không còn xuất hiện hoặc giảm đi rất nhiều.
Ông Duyên nhớ lại, những năm con còn nhỏ, trong độ tuổi từ một đến ba tuổi, khi chưa có nước hợp vệ sinh, hai con ông thường xuyên bị tiêu chảy, phải đưa đi bệnh viện liên tục. Chỉ đến khi các cháu lớn hơn, tình trạng này mới giảm.
Người dân phấn khởi khi được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh. Ảnh: Thanh Ngà.
Người dân phấn khởi khi được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh. Ảnh: Thanh Ngà.
Ông cho biết thêm, trước đây, mỗi khi trong nhà có người bị bệnh, bà con phải đi bộ hoặc đi xe đạp vượt quãng đường khoảng ba cây số để đến trạm y tế xã. Khi đó, đường đi khó khăn, phương tiện còn hạn chế nên việc khám chữa bệnh rất vất vả. Hiện nay, nhờ hệ thống giao thông được đầu tư, ngành y tế phát triển, việc chăm sóc sức khỏe trở nên dễ dàng và kịp thời hơn. Tuy vậy, nếu chỉ chữa bệnh mà vẫn dùng lại nguồn nước bẩn thì bệnh rất dễ tái phát, nhất là các bệnh ngoài da. Chỉ khi có hệ thống nước hợp vệ sinh và dẫn về tận thôn thì sức khỏe của người dân mới thực sự được cải thiện rõ rệt.
Cũng nhớ lại khoảng thời gian cả thôn phải sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh, bà Hà Thị Chanh, người dân thôn Ao Sen, xã Đồng Khê cho biết, trước đây khi chưa có nguồn nước dẫn về, bà cùng nhiều phụ nữ trong thôn thường xuyên mắc các bệnh phụ khoa. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm và gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sinh hoạt hằng ngày. Từ khi có nước sạch để sử dụng, các bệnh ấy không còn xuất hiện nữa. Theo bà Chanh phấn khởi chia sẻ: “Từ khi có nước sạch, sức khỏe của mọi người được cải thiện rõ rệt, ai nấy đều cảm thấy khỏe mạnh hơn trước rất nhiều”.
Ông Hà Sơn Đông, Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cho biết, việc người dân được sử dụng nước hợp vệ sinh đã góp phần ổn định đời sống, cải thiện rõ rệt điều kiện sinh hoạt. Trước đây, khi chưa có công trình cấp nước, người dân phải lấy nước từ mương, rãnh, các khe suối nhỏ chảy ra từ chân đồi, chân rừng. Những nguồn nước này không đảm bảo vệ sinh, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bệnh. Từ khi các công trình cấp nước tập trung được đưa vào sử dụng, chất lượng cuộc sống của người dân thay đổi đáng kể, ai cũng phấn khởi, yên tâm sử dụng nước cho sinh hoạt hằng ngày.
Giữ rừng để giữ mạch nước
Nguồn nước hợp vệ sinh mà người dân thôn Ao Sen đang sử dụng được dẫn từ những cánh rừng già trên núi cao - nơi mà người dân trong xã Đồng Khê từ bao đời vẫn gọi là “mạch sống của bản làng”. Chính vì vậy, công tác bảo vệ rừng, bảo vệ khe suối luôn được xã xác định là nhiệm vụ song hành cùng phát triển.
Nguồn nước hợp vệ sinh mà người dân xã Đồng Khê đang sử dụng được dẫn từ những cánh rừng già trên núi cao. Ảnh: Thanh Ngà.
Nguồn nước hợp vệ sinh mà người dân xã Đồng Khê đang sử dụng được dẫn từ những cánh rừng già trên núi cao. Ảnh: Thanh Ngà.
Chị Lộc Thị Bờ, Trưởng thôn Bản Tạo, xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn chia sẻ: “Thôn có hơn 200ha rừng đầu nguồn được bà con gìn giữ, bảo vệ nghiêm ngặt từ nhiều năm nay. Nhờ giữ rừng tốt, nơi đây hình thành mạch nước lớn, góp phần đảm bảo nguồn nước phục vụ sinh hoạt cho người dân. Thôn Bản Tạo cũng là nơi được Nhà nước đầu tư xây dựng công trình cấp nước tập trung, cung cấp hợp vệ sinh cho các thôn lân cận. Người dân luôn ý thức rằng, bảo vệ rừng chính là cách bảo vệ nguồn nước của chính mình và của cả xã Đồng Khê.
Nhờ giữ rừng tốt, mạch nước trong vùng không những không cạn kiệt mà còn dồi dào quanh năm. Chính nhờ nguồn nước ấy, các công trình cấp nước tập trung tại xã Đồng Khê mới phát huy hiệu quả. Hiện toàn xã có 5 công trình cấp nước, trong đó có 2 công trình lớn và 3 công trình nhỏ, phân bố rải rác tại các thôn. Các công trình này đang phục vụ cho hơn 1.400 hộ dân, chiếm khoảng 96% tổng số hộ toàn xã.
Các công trình cấp nước tập trung phục vụ cho hơn 1.400 hộ dân, chiếm khoảng 96% tổng số hộ toàn xã. Ảnh: Thanh Ngà.
Các công trình cấp nước tập trung phục vụ cho hơn 1.400 hộ dân, chiếm khoảng 96% tổng số hộ toàn xã. Ảnh: Thanh Ngà.
Ông Hà Sơn Đông, Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cho biết, cùng với việc đầu tư hạ tầng cấp nước, chính quyền địa phương luôn chú trọng công tác tuyên truyền, tích cực vận động người dân không xả rác bừa bãi ra sông, suối; vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật được thu gom, xử lý đúng quy định nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn nước sinh hoạt và sức khỏe cho người dân.
Trong thời gian tới, xã sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, gìn giữ rừng đầu nguồn và duy trì hiệu quả hoạt động của các công trình cấp nước tập trung. Theo ông Đông, đây là yếu tố then chốt để đảm bảo nguồn hợp vệ sinh ổn định, phục vụ lâu dài cho đời sống sinh hoạt của người dân.
Những năm qua, huyện Văn Chấn được đầu tư nhiều chương trình, dự án về cấp nước như Chương trình Mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình 134, 135, 30A...với các nguồn vốn đa dạng từ ngân sách Nhà nước, quốc tế, tín dụng và đóng góp của người dân. Năm 2020 là 92,78% đến hết năm 2024, tỷ lệ người dân nông thôn trong huyện sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 94,5%, trong đó 14,2% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
ĐBSCL Nhiều tỉnh ĐBSCL đang khẩn trương tích trữ nước, nạo vét kênh mương, điều chỉnh thời vụ sản xuất nhằm ứng phó xâm nhập mặn và bảo đảm nước tưới trong vụ hè thu 2025.
Đầm Hà sửa chữa 32 công trình thủy lợi từ Quỹ Phòng chống thiên tai
Quỹ Cộng đồng phòng tránh thiên tai hỗ trợ Yên Bái hơn 6 tỷ đồng
Đồng Nai: Tổ chức Tuần lễ Quốc gia phòng, chống thiên tai 2025
TP.HCM đẩy mạnh phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn
Mưa đến, mặn đi
ĐBSCL đang bước vào đầu mùa mưa năm 2025, hiện tại khu vực này ghi nhận lượng mưa khá lớn, dao động từ 30-50mm, có nơi trên 70mm. Lượng mưa đáng kể này đã góp phần làm giảm mức độ xâm nhập mặn so với dự báo trước đó.
Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, xâm nhập mặn có hàm lượng 4g/l hiện chỉ vào sâu khoảng 30km tính từ các cửa sông, mức được xem là thấp hơn trung bình nhiều năm.
ĐBSCL đang bước vào đầu mùa mưa, nông dân tranh thủ lấy nước ngọt để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tuy nhiên, các chuyên gia khuyến cáo các tỉnh trong vùng không nên chủ quan, bởi diễn biến bất thường của thời tiết, đặc biệt là khi gió chướng hoạt động mạnh có thể đẩy mặn vào sâu trong nội đồng. Việc vận hành hợp lý các cống kiểm soát mặn, tranh thủ tích nước ngọt và giám sát chất lượng nước trước khi đưa vào sản xuất được xem là giải pháp then chốt để đảm bảo an toàn mùa vụ.
Hiện tại, toàn vùng ĐBSCL đã xuống giống vụ hè thu 2025 được hơn 780.000 ha, đạt khoảng 53,6% kế hoạch, tập trung chủ yếu ở các vùng ngọt như: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang, Kiên Giang... Số diện tích còn lại dự kiến hoàn tất gieo sạ trong tháng 5-6 này.
Tại huyện Tri Tôn (An Giang), do địa hình núi cao nên việc tích trữ và dẫn nước gặp nhiều khó khăn hơn so với các địa bàn khác. Ông Trần Văn Cương, Phó Chủ tịch UBND huyện Tri Tôn cho biết: Địa phương chia lịch xuống giống lúa hè thu làm 3 đợt từ giữa tháng 3 đến 10/5, căn cứ vào điều kiện thủy lợi và khả năng chia sẻ nguồn nước giữa các tiểu vùng. Cùng với đó, huyện yêu cầu nông dân vệ sinh đồng ruộng trước gieo sạ, tập trung xuống giống đồng loạt để né hạn đầu vụ, phòng tránh dịch hại, đồng thời áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến như IPM, “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”.
Những cơn mưa xuất hiện góp phần làm giảm mức độ xâm nhập mặn so với dự báo trước đó, người dân An Giang rất yên tâm sản xuất. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ngoài việc điều chỉnh thời vụ, Tri Tôn còn đẩy mạnh các hoạt động khơi thông dòng chảy. Các xã trọng điểm như Lạc Quới, Vĩnh Gia, Ba Chúc đã và đang khảo sát, lên kế hoạch nạo vét kênh mương nhằm bảo đảm lượng nước tưới tiêu cho gần 44.637 ha diện tích cây trồng vụ này.
Chuyển đổi cây trồng vùng khan hiếm nước
Tại Đồng Tháp - địa phương có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn của vùng ĐBSCL, công tác phòng chống hạn, mặn đã được chủ động triển khai từ đầu mùa khô.
Ông Huỳnh Minh Đường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp cho biết: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, việc tăng cường trữ nước, kiểm soát mặn và điều tiết thời vụ đang được xem là giải pháp căn cơ, góp phần giúp Đồng Tháp chủ động hơn trong ứng phó với hạn mặn và đảm bảo an toàn cho sản xuất nông nghiệp bền vững.
Hiện nay, UBND tỉnh Đồng Tháp đã ban hành kế hoạch ứng phó hạn mặn trên toàn tỉnh, tập trung vào các giải pháp như nạo vét kênh rạch, tích trữ nước tại chỗ, chuyển đổi cây trồng ở vùng khan hiếm nước, đồng thời theo dõi sát tình hình nguồn nước để có điều chỉnh phù hợp.
Việc tích nước và vận hành linh hoạt các công trình thủy lợi là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an toàn cho mùa vụ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Vụ hè thu năm nay, Đồng Tháp gieo trồng hơn 186.500 ha lúa, 13.500 ha hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày, 46.500 ha cây lâu năm. Để đảm bảo nước tưới, tỉnh đã huy động các nguồn lực sửa chữa, nâng cấp công trình thủy lợi, nhất là tại các vùng có địa hình cao hoặc khó tiếp cận nguồn nước.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (ĐH Cần Thơ) cho biết: Cần chuyển đổi tư duy canh tác từ chủ động nước sang chủ động mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, trong đó có việc sử dụng giống ngắn ngày, tiết kiệm nước.
Nguồn: baotainguyenvamoitruong.vn
|
Luật tài nguyên nước đầu tiên được ban hành văò năm 1998, trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, đến năm 2023 được sửa đổi bổ sung hoàn thiện đánh dấu bước ngoặt trong công tác quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Trong đó, Chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước là hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực trong công tác quản lý tài nguyên nước. Từ khi Luật tài nguyên nước 2023 có hiệu lực thi hành, Bộ Nông nghêịp và Môi trường đã có chỉ đạo quyết liệt trong công tác áp dụng thành tựu khoa học công nghệ trong quản lý tài nguyên nước nhằm sử dụng nguồn lực một cách hiệu lực, hiệu quả nhất là trong công tác giám sát tài nguyên nước, vận hành liên hồ chứa, dự báo hạn hán thiếu nước, kịch bản nguồn nước, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia đảm bảo “Đúng, đủ, sạch, sống”.
GIÁM SÁT TÀI NGUYÊN NUYÊN NƯỚC TRÊN NỀN TẢNG IoT
Chia sẻ tại Phiên họp Tiểu ban chuyên đề số 3 về môi trường, tài nguyên nước và viễn thám trong khuôn khổ Hội nghị triển khai “Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” diễn ra vào chiều ngày 10/5 tại tỉnh Bắc Ninh, TS. Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, nhận thức được việc đẩy mạnh áp dụng các giải pháp, công nghệ tiên tiến nhằm quản lý tài nguyên nước hiệu quả, trong đó chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài nguyên nước là yêu cầu cấp thiết, từ năm 2018, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với Cục Chuyển đổi số và Thông tin dữ liệu tài nguyên môi trường triển khai xây dựng Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước (https://iot.monre.gov.vn/tnn/).
TS. Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước chia sẻ tại Phiên họp Tiểu ban chuyên đề số 3 về môi trường, tài nguyên nước và viễn thám
Với các mục tiêu được đặt ra bao gồm: Theo dõi, giám sát trực tuyến các công trình khai thác, sử dụng nước mặt; công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất do Bộ TN&MT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp phép (giám sát theo giấy phép); Thiết kế dựa trên các chuẩn mở để đảm bảo vấn đề kết nối, liên thông, tích hợp và chia sẻ thông tin, dữ liệu với các hệ thống của 63 tỉnh/ thành phố trên cả nước; Kết nối, liên thông được với hệ thống hiện có về quan trắc lưu lượng, mực nước, chất lượng nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa đã ban hành; Cập nhật tự động hoặc thủ công các thông tin (lưu lượng, mực nước, chất lượng nước và hình ảnh) vào hệ thống phục vụ giám sát, cảnh báo.
Giao diện Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước Mô hình Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Tính đến cuối tháng 4/2025, hệ thống đã cập nhật được tổng cộng 13.507 giấy phép tài nguyên nước các loại lên hệ thống, trong đó có 2.270 giấy phép cấp Bộ và 11.237 giấy phép cấp Tỉnh.
Bên cạnh đó, triển khai thực hiện Thông tư số 17/2021/TT-BTNMT ngày 14/10/2021 quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước và Nghị định 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước, tính đến hết tháng 4/2025 đã có 58 Sở Nông nghiệp và Môi trường triển khai cập nhật, kết nối thông tin của giấy phép tài nguyên nước địa phương vào cơ sở dữ liệu về thông tin giấy phép tài nguyên nước dùng chung của trung ương.
Cùng với đó, tính đến tháng 4/2025, Hệ thống giám sát tài nguyên nước đã có 831 công trình khai thác tài nguyên nước thuộc đối tượng cấp phép của Bộ NN&MT đăng ký, kết nối truyền dữ liệu về hệ thống. Trong đó, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phê duyệt kết nối thành công để truyền dữ liệu về hệ thống đối với 810 công trình (công trình nước mặt: 697 công trình; công trình nước dưới đất: 111 công trình; nước biển: 02 công trình).
Hệ thống giám sát tài nguyên nước được xây dựng và đi vào vận hành đã mang lại những kết quả ban đầu, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý tại Trung ương và các địa phương. Từ dữ liệu của các công trình kết nối, truyền về Hệ thống giám sát tài nguyên nước Trung ương đã góp phần đắc lực cho công tác quản lý điều hành, ra quyết định phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Cục Quản lý Tài nguyên nước như: Thu nhận và lưu trữ dữ liệu từ các trạm quan trắc của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước đảm bảo thuận lợi, hiệu quả, nhanh chóng; Tổng hợp, phân tích và xây dựng các biểu đồ, đồ thị liên quan; Thống kê dữ liệu theo thời gian, loại hình, theo đơn vị hành chính, lưu vực sông; Tìm kiếm và quản lý thông tin; Hiện thị các trạm quan trắc trên bản đồ; Đưa ra cảnh báo, thông báo khi có dấu hiệu chuẩn bị vượt ngưỡng hoặc khi đã vượt ngưỡng quy định; Trích xuất dữ liệu, xây dựng báo cáo về danh sách và thông tin về công trình đã kết nối.
Giao diện phân hệ cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép tài nguyên nước Giao diện phân hệ giám sát tài nguyên nước
VẬN HÀNH QUY TRÌNH VẬN HÀNH LIÊN HỒ CHỨA TRÊN NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ SỐ VÀ IoT
Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 60 của Luật tài nguyên nước 2012 và khoản 7 Điều 38 của Luật tài nguyên nước 2023 thì Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng, điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng và hoàn thiện 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông lớn, quan trọng (các quy trình được rà soát, cập nhật thường xuyên). Sau khi được ban hành, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc vận hành của các hồ chứa theo quy định của các Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Với tổng số khoảng 134 hồ chứa, đập dâng trên 11 lưu vực sông được điều tiết, vận hành theo cơ chế liên hồ với nguyên tắc ưu tiên hàng đầu trong mùa lũ là đảm bảo an toàn công trình, cắt, giảm lũ cho hạ du ưu tiên duy trì dòng chảy tối thiểu, cấp nước hạ du phục vụ hoạt động sản xuất và dân sinh trong mùa cạn.
Giao diện hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa
Để đáp ứng các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đang sử dụng hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, được xây dựng từ năm 2015 (https://quanly.dwrm.gov.vn/hochua). Hệ thống hiện tại đã tiếp nhận số liệu vận hành của hơn 134 hồ chứa thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông, bao gồm: sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Kôn - Hà Thanh, sông Ba, sông Sê San, sông Srepok và sông Đồng Nai.
Những thông tin cần thiết để phục vụ quá trình theo dõi, kiểm tra việc vận hành các hồ theo các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa, làm cơ sở trong công tác chỉ đạo, điều hành việc vận hành các hồ theo Quy trình vận hành liên hồ chứa, gồm: (1) Số liệu mực quan trắc nước hồ, lưu lượng đến hồ, lưu lượng xả qua đập, lưu lượng xả qua phát điện; (2) Số liệu quan trắc lưu lượng, mực nước và các thời điểm mực nước tại các Trạm thủy văn đạt giá trị mực nước theo các cấp báo động và đạt các giá trị mực nước quy định trong các Quy trình vận hành liên hồ chứa; các bản tin dự báo, cảnh báo,…
Các chủ hồ thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông phải cung cấp thường xuyên dữ liệu vận hành tại công trình vào hệ thống.
Các thông tin, số liệu vận hành mà các đơn vị quản lý vận hành các hồ chứa cập nhật lên hệ thống là cơ sở quan trọng trong việc phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông và là cơ sở để Cục Quản lý tài nguyên nước kịp thời đôn đốc, hướng dẫn các chủ hồ thực hiện nghiêm túc việc vận hành đảm bảo cắt, giảm lũ cho hạ du và phối hợp vận hành, điều tiết hồ chứa đảm bảo cấp nước cho hạ du trong trong mùa cạn, các thời kỳ xảy ra hạn hán thiếu nước trên các lưu vực sông và theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa thông qua hình thức văn bản, điện thoại, email,... (hàng năm đã gửi trên 100 văn bản đến các chủ hồ, các địa phương để đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo công tác vận hành).
Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thường xuyên cung cấp các bản tin dự báo, cảnh báo kịp thời đến các địa phương, các chủ hồ; đôn đốc việc nghiêm túc thực hiện các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa. Cử đoàn công tác đi khảo sát thực tế tại các vùng bị ngập, lụt tại một số tỉnh, thành phố; giải đáp, hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc trong việc điều hành các hồ chứa theo Quy trình. Đối với mùa cạn, cử các đoàn công tác làm việc với các địa phương để thống nhất phương án chỉ đạo, điều tiết nước các hồ chứa, đặc biệt là trong những thời gian xảy ra hạn hán thiếu nước để đảm bảo việc vận hành các hồ chứa cung cấp đủ nước cho hạ du các lưu vực sông.
XÂY DỰNG BẢN ĐỒ HẠN HÁN, THIẾU NƯỚC THEO THỜI GIAN THỰC
Các lưu vực sông, nhất là vùng hạ du như Hồng - Thái Bình, Đồng Nai - Sài Gòn là những khu vực trọng điểm về kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh lương thực và an ninh nguồn nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với nhu cầu khai thác và sử dụng nước gia tăng nhanh chóng, nguồn nước trên các lưu vực sông đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng.
Trước thực trạng đó, việc chủ động xây dựng kịch bản nguồn nước là yêu cầu cấp thiết, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Kịch bản nguồn nước, (ví dụ như kịch bản hạn trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình) không chỉ cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo nguy cơ hạn hán mà còn hỗ trợ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân.
Tiến sĩ Nguyễn Minh Khuyến cũng cho biết, để xây dựng bản đồ hạn hán, thiếu nước và kịch bản nguồn nước ứng dụng đồng bộ các công nghệ chuyển đổi số hiện đại, đơn vị đã thu thập và xử lý dữ liệu lớn (Big Data) được cập nhập liên tục, bao gồm: số liệu mưa, dòng chảy, lượng nước hồ chứa, mực nước dưới đất và nhu cầu sử dụng nước...
Việc ứng dụng mô hình số cho phép tất cả dữ liệu được tích hợp vào hệ thống quản lý tập trung, cho phép cập nhật, đồng bộ và truy xuất nhanh chóng. Xây dựng và áp dụng tổ hợp các mô hình số dự báo mưa hạn mùa để dự báo lượng mưa cho 6 tháng tiếp theo nhằm cung cấp thông tin cho các kịch bản.
Để xây dựng bản đồ hạn, đơn vị còn áp dụng mô hình thủy văn dự báo dòng chảy, biến trình mực nước tại các hồ chứa. Sử dụng các phương pháp/thuật toán để phân tích xu thế hạn hán, đánh giá nguy cơ thiếu nước theo vùng, tiểu vùng.
Dựa trên kết quả mô phỏng, các vùng được chia theo mức độ thiếu hụt nước: nhẹ, trung bình, nghiêm trọng. Trên nền tảng GIS, bản đồ hạn được thiết kế. Các vùng hạn được thể hiện trực quan trên bản đồ số, giúp người dùng dễ dàng nhận biết khu vực bị ảnh hưởng, mức độ nghiêm trọng và diễn biến theo thời gian.
Cùng với việc xây dựng bản đồ hạn hán, các cơ quan quản lý tài nguyên nước thuộc Bộ NN&MT còn xây dựng các kịch bản nguồn nước. Các kịch bản được thiết lập dựa trên xu thế lượng mưa (so với TBNN, các năm gần đây,..), xu thế dòng chảy, tổng lượng nước tích trữ ở các hồ chứa thủy điện, mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất và nhu cầu khai thác, sử dụng của các ngành. Từ đó, phân tích tác động của từng kịch bản đến cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, thủy điện.
Các sản phẩm nổi bật của quá trình chuyển đổi số trong công tác xây dựng bản đồ hạn hán, thiếu nước và kịch bản nguồn nước lĩnh vực tài nguyên nước, đó là:
-
Bản tin/bản đồ dự báo mưa hạn mùa: Cập nhật định kỳ hằng tháng, cung cấp thông tin về xu thế lượng mưa. Từ đó đưa ra cảnh báo thiếu lượng mưa.
-
Bản tin/bản đồ dự báo dòng chảy, hồ chứa: Dự báo xu thế mưa, đưa ra xu thế dòng chảy các sông chính, lượng nước tích trữ tại các hồ lớn nhằm cảnh báo sớm cho các địa phương, ngành sản xuất chủ động ứng phó với tình trạng thiếu nước.
-
Bản đồ hạn hán theo vùng, theo thời gian: Hiển thị các khu vực bị thiếu nước.
- Nguồn: DWRM
|
|
|