(TN&MT) - 15h chiều nay 11/9, thủy điện Tuyên Quang sẽ đóng tiếp cửa xả đáy thứ tư.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa gửi công điện, lệnh Giám đốc Nhà máy thủy điện Tuyên Quang đóng tiếp tục đóng 1 cửa xả đáy hồ thủy điện Tuyên Quang.
15h chiều nay 11/9, thủy điện Tuyên Quang sẽ đóng tiếp cửa xả đáy thứ tư. Ảnh: EVN
Hồi 13h chiều nay, mực nước thượng lưu hồ Tuyên Quang đã ở cao trình 117,63m, lưu lượng đến hồ 2.643m3/s, lưu lượng xả 3.708m3/s. Như vậy, sau 15h chiều nay, thủy điện Tuyên Quang sẽ đóng 4/8 cửa xả đáy.
Theo Đài KTTV tỉnh Tuyên Quang, mực nước lũ trên sông Lô- Gâm, sông Chảy ở mức cao gây ngập lụt TP Tuyên Quang và một số huyện, với độ sâu từ 1 - 4m. Nguy cơ gây sạt lở, sụt lún bờ sông, bãi sông, công trình ven sông, khu vực có kết cấu đất đá yếu. Thời gian ngập lụt dự kiến kéo dài từ 2 - 3 ngày, sau độ sâu ngập sẽ giảm dần và kéo dài thêm 3- 5 ngày.
Cũng trong hôm nay, thủy điện Hòa Bình đã đóng cửa xả duy nhất. Việc liên tiếp đóng cửa xả thủy điện nhằm giúp giảm lượng nước đổ về vùng hạ du, nơi mực nước lũ trên các sông hầu hết đều đã lên quanh mức báo động 3.
Tại thủy điện Thác Bà, đến 14h30 chiều nay, lưu lượng nước đến hồ là 2.778 m3/s, tổng lượng xả qua đập tràn là 2.918 m3/s. Tất cả các thông số lũ đến, lũ xả và mực nước đều thấp hơn thiết kế. Tham gia đoàn công tác của Chính phủ đến thủy điện Thác Bà vào sáng nay, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết: Còn nhiều việc phải làm nhưng với lưu lượng nước về và lưu lượng xả, chúng tôi khẳng định Thủy điện Thác Bà an toàn.
Các thông số của thủy điện Thác Bà đã trong ngưỡng an toàn. Ảnh: Thông tin Chính phủ
Sẽ mất khoảng 1-2 ngày nữa thì hồ sẽ về mực nước cho phép và bà con nhân dân trong khu vực vẫn phải ở nơi tránh trú để đề phòng trường hợp bất trắc có thể xảy ra. Thứ trưởng Hiệp cho rằng, với dự báo tình hình thời tiết, vấn đề Thủy điện Thác Bà sẽ được giải quyết tốt, mực nước sẽ xuống dưới ngưỡng cho phép.
Dự báo lượng mưa ở khu vực này trong 48 giờ tới khoảng 40-50 mm và trong 24 giờ tới thì lượng mưa khoảng 15-20 mm. Hiện nay, các lực lượng chức năng đã tính toán mọi phương án và chủ động sẵn sàng lực lượng để ứng phó với tinh thần là giảm thiệt hại xuống mức tối thiểu, trong đó, tính mạng của người dân là trên hết.
Nguồn: botainguyenvamoitruong.vn
|

Bộ Công Thương yêu cầu các nhà máy thuỷ điện miền Bắc tuân thủ nghiêm quy trình vận hành liên hồ chứa khi tiến hành xả lũ.
Ngày 10/9, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký ban hành Công điện hỏa tốc số 6908/CĐ-BCT gửi Sở Công Thương các tỉnh, thành phố khu vực Bắc Bộ; các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Dầu khí Việt Nam, Hóa chất Việt Nam, Xăng dầu Việt Nam; Các Tổng công ty, doanh nghiệp thuộc Bộ về việc ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét tại các tỉnh miền núi, trung du Bắc Bộ.
Công văn nêu rõ: Bão số 3 đã gây mưa lớn trên diện rộng ở Bắc Bộ, đặc biệt các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ đã có mưa từ 200 - 350mm (nhiều nơi 400 - 500mm, có nơi gần 600mm), lũ trên sông Thao và Lục Nam đã vượt mức báo động 3, ngập lụt cục bộ, sạt lở đất đã xảy ra tại nhiều nơi, nhất là ở Cao Bằng, Hòa Bình, Lào Cai. Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia trong những ngày tới khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ sẽ tiếp tục có mưa lớn với lượng mưa 100 - 200mm, có nơi trên 350mm nguy cơ rất cao xảy ra lũ lớn, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét và ngập lụt cục bộ tại các vùng trũng thấp.
Thực hiện Công điện số 89/CĐ-TTg ngày 09/9/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc tập trung khắc phục sự cố sập nhịp cầu Phong Châu, tỉnh Phú Thọ và ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét tại các tỉnh miền núi, trung du Bắc Bộ, Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu các đơn vị trong ngành Công Thương nghiêm chỉnh thực hiện với trách nhiệm cao nhất các nhiệm vụ được giao trong các Công điện của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương về ứng phó với bão số 3 và khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ sau:
1. Sở Công Thương các tỉnh, thành phố
- Tăng cường công tác rà soát, kiểm tra công tác đảm bảo an toàn, phòng chống thiên tai tại các dự án, công trình ngành Công Thương, nhất là các công trình đang thi công xây dựng tại các địa bàn có nguy cơ bị lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, vùng trũng thấp nhằm kịp thời chỉ đạo các đơn vị khắc phục các hạn chế, khiếm khuyết đảm bảo an toàn cho người và công trình.
- Chỉ đạo các đơn vị trong ngành Công Thương tăng cường công tác giám sát an toàn, có phương án ứng phó đảm bảo an toàn cho người, công trình, máy móc, thiết bị và chuẩn bị sẵn sàng nguồn lực, phương tiện, vật tư để chủ động triển khai các biện pháp ứng phó với các tình huống khẩn cấp do thiên tai gây ra; Không cho phép xây dựng lán trại, nhà tạm tại những khu vực có nguy cơ bị lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, vùng trũng thấp; Cương quyết xử lý các đơn vị vi phạm.
- Chỉ đạo các chủ đập thủy điện trên địa bàn thực hiện nghiêm quy trình vận hành liên hồ chứa và quy trình vận hành hồ chứa đã được cấp thẩm quyền phê duyệt và các yêu cầu nhiệm vụ tại công điện này;
- Chủ trì, phối hợp với các cấp, các ngành tại địa phương khẩn trương tổ chức kiểm tra công tác vận hành xả lũ của các nhà máy thủy điện, nhất là các thủy điện có dung tích phòng lũ và các công trình thủy điện có vùng hạ du đang bị ngập lụt; kiểm tra công tác đảm bảo an toàn đập, hồ chứa thủy điện, nhất là các hồ đập xung yếu, các thủy điện nhỏ hoặc đang thi công, sửa chữa, kịp thời phát hiện các điểm có nguy cơ sạt lở để cắm biển cảnh báo, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tại địa phương thông tin kịp thời, bảo đảm an toàn cho người dân, nhất là trong tình huống xả lũ khẩn cấp.
2. Tập đoàn Điện lực Việt Nam
- Chỉ đạo các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát, Tuyên Quang, Thác Bà và các công trình thủy điện thuộc phạm vi quản lý khu vực miền Bắc, miền Trung tuân thủ nghiêm quy trình vận hành liên hồ chứa, quy trình vận hành hồ chứa đã được cấp thẩm quyền phê duyệt và chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống thiên tai và các cấp có thẩm quyền; chủ động, sẵn sàng các phương án khi xuất hiện các tình huống bất thường khi vận hành công trình, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình thủy điện và hạn chế thiệt hại đến mức thấp nhất về người và tài sản cho nhân dân vùng hạ du do lũ gây ra; tăng cường thông tin cảnh báo, thông báo sớm cho chính quyền địa phương các cấp, nhân dân vùng thượng, hạ lưu trước khi vận hành xả lũ theo quy trình.
- Tổ chức các đoàn kiểm tra và yêu cầu các đơn vị thủy điện thuộc phạm vi quản lý tự kiểm tra việc ứng phó, khắc phục thiệt hại và các sự cố do hoàn lưu cơn bão số 3 và tình hình mưa lũ đang diễn biến phức tạp.
- Theo dõi chặt chẽ diễn biến của các hình thái thiên tai; chuẩn bị đầy đủ nhân lực, vật tư, phương tiện theo phương châm “4 tại chỗ” để ứng phó với các sự cố bất thường có thể xảy ra.
- Phối hợp với Sở Công Thương các địa phương chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn hồ đập, nhất là các hồ đập xung yếu, các thủy điện nhỏ hoặc đang thi công, sửa chữa; công tác vận hành các hồ chứa thủy điện đảm bảo an toàn công trình, an toàn hạ du phù hợp với diễn biến của mưa, lũ, nhất là các hồ chứa nước lớn trên hệ thống bậc thang thủy điện sông Đà.

3. Các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp thuộc Bộ
- Tăng cường công tác kiểm tra các đơn vị và chỉ đạo các đơn vị tự kiểm tra công tác đảm bảo an toàn và phòng chống thiên tai đối với các công trình xây dựng thuộc phạm vi quản lý, nhất là các công trình đang thi công xây dựng tại các địa bàn có nguy cơ bị lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, vùng trũng thấp nhằm kịp thời chỉ đạo các đơn vị khắc phục các hạn chế, khiếm khuyết đảm bảo an toàn cho người và công trình.
- Chỉ đạo các đơn vị thuộc phạm vi quản lý huy động tối đa nguồn lực, phương tiện, vật tư để sẵn sàng ứng phó với các tình huống thiên tai; theo dõi chặt chẽ thông tin dự báo về thời tiết, mưa, lũ, sạt lở đất để chủ động triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn.
- Tăng cường nhận thức và kỹ năng cho người lao động về các biện pháp đảm bảo an toàn, ứng phó với các tình huống thiên tai có thể xảy ra.
4. Các chủ đập công trình thủy điện
- Nghiêm túc tuân thủ quy trình vận hành liên hồ, đơn hồ chứa thủy điện đã được cấp thẩm quyền phê duyệt, đặc biệt là khi xuất hiện các tình huống bất thường; vận hành khoa học, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình, không để xảy ra lũ nhân tạo, góp phần cắt giảm lũ cho hạ du, trong đó phải lưu ý thông báo sớm cho người dân trước khi vận hành xả lũ.
- Huy động tối đa nguồn lực, thiết bị để thông tin cảnh báo, thông báo sớm nhất cho chính quyền địa phương, người dân khu vực phía hạ du trước khi tiến hành xả lũ theo quy trình và theo lệch vận hành của cơ quan thẩm quyền, nhất là trong tình huống xả lũ khẩn cấp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá tình trạng đập, các thiết bị, hạng mục vận hành xả lũ, nhận nước, hệ thống cảnh báo xả lũ khu vực hạ du… và khắc phục kịp thời các khiếm khuyết (nếu có).
- Tổ chức trực ban 24/24h, giữ thông tin liên lạc thông suốt với Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai các cấp, triển khai thực hiện các phương án đảm bảo an toàn hồ đập, vùng hạ du hồ chứa và các công trình đang thi công dở dang, đặc biệt là các công trình trọng điểm, xung yếu; kịp thời cắm biển thông báo, cảnh báo cho người dân về các khu vực nguy hiểm trong phạm vi bảo vệ đập, hồ chứa thủy điện; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tại địa phương trong công tác ứng phó thiên tai và bảo đảm an toàn cho người dân khu vực hạ du, nhất là trong tình huống xả lũ khẩn cấp.
5. Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp
- Theo dõi chặt chẽ diễn biến của hoàn lưu bão số 3 để kịp thời chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị triển khai các biện pháp ứng phó.
- Đôn đốc các đơn vị thực hiện nghiêm túc các Công điện của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương và các quy định về an toàn kỹ thuật và phòng chống thiên tai thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Công Thương.
Trước đó, ngày 9/9/2024, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ký ban hành Công điện số 6844/CĐ-BCT về tăng cường ứng phó với mưa lớn do hoàn lưu bão số 3 và đảm bảo an toàn trong vận hành công trình thủy điện.
Công văn nêu: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các Công điện 86, 87 và 88/CĐ-TTg, để đảm bảo an toàn các công trình thủy điện, đặc biệt vùng hạ du khi xả lũ, tiếp theo các Công điện hoả tốc của Bộ Công Thương số: 6638, 6650, 6751 và 6814/CĐ-BCT, Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu Thủ trưởng tại các đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo về việc tăng cường ứng phó với mưa lớn do hoàn lưu bão số 3 và đảm bảo an toàn trong vận hành các công trình thủy điện.
|
Tác giả bài viết: DWRM
|
\
Bộ TN&MT ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra
Nhằm hướng về đồng bào bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 gây ra và đồng bào đang gặp khó khăn do mưa lũ sau cơn bão này, Bộ TN&MT đã chung tay ủng hộ đồng bào bị thiệt hại.
Bão số 3 là cơn bão có cường độ mạnh nhất trong 30 năm qua trên Biển Đông và 70 năm qua trên đất liền nước ta, đổ bộ trực tiếp vào khu vực Bắc Bộ; tăng cấp không theo quy luật; thời gian lưu bão trên đất liền dài; vùng ảnh hưởng của bão rất rộng. Hoàn lưu bão đã gây mưa rất to, lũ lớn; một số nơi vượt mức lũ cao nhất trong lịch sử; sạt lở đất, lũ ống, lũ quét tại nhiều địa phương.
Những ngày vừa qua mưa lũ xảy ra nghiêm trọng trên diện rộng tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhà dân bị phá hủy và hư hỏng nặng, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của hàng triệu người dân.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những ngày qua, nhiều bộ, ngành, địa phương, đơn vị đã phát động chung tay cùng chia sẻ khó khăn và hỗ trợ đồng bào bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3, sớm ổn định cuộc sống.

Bộ TN&MT ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra
Phát huy mạnh mẽ tình dân tộc, nghĩa đồng bào và tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, chiều ngày 10/9, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Lễ phát động ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơ bão số 3 gây ra.
Tại buổi lễ phát động này, Bộ TN&MT đã chung tay ủng hộ 300 triệu đồng. Ông Dương Trung Thành, Chủ tịch Công đoàn Bộ TN&MT cho biết, đây là hành động thiết thực của Bộ TN&MT không chỉ thể hiện sự sẻ chia, đoàn kết với bà con vùng bão lũ mà còn là nguồn động viên to lớn, giúp các địa phương sớm vượt qua khó khăn.
Theo ông Dương Trung Thành, cũng trong chiều 10/9, đoàn công tác của Công đoàn Bộ TN&MT đã ủng hộ 300 triệu đồng hỗ trợ người dân Yên Bái bị thiệt hại do mưa lũ. Hy vọng, với sự giúp đỡ lần này sẽ góp phần hỗ trợ người dân sớm vượt qua khó khăn trước mắt, tái ổn định cuộc sống sau thiên tai, nhanh chóng khôi phục sản xuất.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Nhằm chủ động phòng ngừa, hạn chế tối đa những thiệt hại do mưa, lũ của cơn bão số 3 gây ra, Cục Quản lý tài nguyên nước vừa có văn bản số 2193/TNN-LVSHTB gửi các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Hồng về việc vận hành các hồ chứa trên lưu vực sông Hồng.
Công văn nêu rõ, ngày 04/9/2024, Cục Quản lý tài nguyên nước đã có Văn bản số 2158/TNN-LVSHTB gửi các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Hồng đôn đốc về việc vận hành các hồ chứa để ứng phó với cơn bão số 3 (Yagi).
Trước diễn biễn lũ về các hồ hết sức phức tạp, mực nước của hầu hết các hồ chứa lớn trên lưu vực đều đang ở mức cao, đặc biệt là hồ Thác Bà và Tuyên Quang, trong đó hồ Thác Bà đang vận hành đảm bảo an toàn công trình. Vì vậy, để chủ động phòng ngừa, hạn chế tối đa những thiệt hại do mưa, lũ gây ra, Cục Quản lý tài nguyên nước đề nghị các đơn vị quản lý vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Hồng thực hiện nghiêm túc, tuân thủ tuyệt đối lệnh vận hành hồ của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa.
Đảm bảo an toàn hồ chứa trên lưu vực sông Hồng
Cùng với đó, tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến mưa lũ, an toàn công trình, thực hiện việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin, số liệu vận hành hồ, hiện trạng công trình đến các cơ quan chức năng liên quan để đảm bảo công tác theo dõi, giám sát, chỉ đạo điều hành theo quy định.
Đặc biệt, các đơn vị quản lý vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Hồng thực hiện các biện pháp để đảm bảo an toàn công trình, thông tin kịp thời cho các cơ quan chức năng ở địa phương người và dân khu vực hạ du đập, hồ chứa khi thay đổi chế độ vận hành xả lũ, đặc biệt vận hành trong tình huống khẩn cấp để đảm bảo an toàn công trình, an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Để triển khai hiệu quả các quy định về việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, đồng thời khuyến khích tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, ngày 16/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định 54/2024/NĐ-CP quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (Nghị định 54). Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Đây được coi là giải pháp nhằm hạn chế thất thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước hiện nay.
Khai thác nước phục vụ cho sinh hoạt phải nộp tiền
Theo quy định của Nghị định 54, tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước thuộc trường hợp phải cấp phép khai thác nước mặt, nước dưới đất phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp, cụ thể: Khai thác nước mặt để phát điện có mục đích thương mại; Khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ hoạt động sản xuất (bao gồm cả nước làm mát máy, thiết bị, tạo hơi, gia nhiệt), kinh doanh, dịch vụ, cấp cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cấp cho sinh hoạt.
Các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch... sẽ phải thực hiện đăng ký cấp phép tài nguyên nước
Chia sẻ về những điểm mới của Nghị định 54 so với các quy định trước đây, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho biết, Nghị định 54 đã bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, bao gồm khai thác nước mặt để phát điện cho mục đích thương mại và khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước cho nông nghiệp và cấp cho sinh hoạt.
Đối tượng được miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là các trường hợp cấp nước cho sinh hoạt của người dân ở các khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nhằm tạo điều kiện cho bà con ở những vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, còn có hạng mục công trình khai thác tài nguyên nước đã được Chính phủ bảo lãnh và trường hợp các công trình khai thác, sử dụng nước trong thời gian bị hư hỏng và sự cố bất khả kháng dẫn đến không thể tiếp tục khai thác nước, buộc phải dừng việc khai thác.
Nghị định cũng quy định đối tượng được giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, bao gồm 4 trường hợp: Các công trình khai thác nước phải cắt, giảm lượng nước khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu cắt giảm; các công trình khai thác, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, tiết kiệm nước; hồ chứa đã vận hành phải điều chỉnh, bổ sung dung tích phòng lũ cho hạ du so với nhiệm vụ của hồ chứa đã được phê duyệt và việc khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính kê khai, đăng ký, cấp phép
Theo ông Ngô Mạnh Hà, Nghị định 54 được Bộ TN&MT xây dựng theo hướng các quy định về thủ tục hành chính đảm bảo rõ ràng, cụ thể, minh bạch; đơn giản hoá thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bên cạnh đó, Nghị định quy định cụ thể các trường hợp đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khả thi, thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước trong thực thi quy định pháp luật về tài nguyên nước, đồng thời nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị định là việc đơn giản hoá thủ tục kê khai, đăng ký, cấp phép. Theo đó, các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ sinh hoạt sẽ phải thực hiện kê khai, đăng kí, cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Cùng với đó, các công trình khai thác nước dưới đất phục vụ một số mục đích có quy mô nhỏ; công trình đập ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch chỉ có mục đích ngăn mặn, tạo nguồn, chống ngập, tạo cảnh quan; các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch... sẽ phải thực hiện đăng ký thay vì phải lập hồ sơ đề nghị cấp phép như trước đây.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định liên quan đến việc tạm dừng có thời hạn hiệu lực của giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác, sử dụng nước. Quyền lợi của tổ chức, cá nhân sẽ được giảm tiền cấp quyền khai thác nước trên cơ sở trừ số tiền tương ứng với số ngày mà họ dừng việc khai thác.
Thẩm quyền cấp phép tài nguyên nước
Đối với thẩm quyền cấp phép tài nguyên nước, Nghị định 54 quy định, Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh phê duyệt, điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép khai thác tài nguyên nước.

Cơ quan tiếp nhận và trả kết quả tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (cơ quan tiếp nhận hồ sơ) bao gồm: Văn phòng Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính của Bộ TN&MT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ.
Bộ phận một cửa hoặc Trung tâm Phục vụ hành chính công có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp tỉnh. Trường hợp địa phương chưa thành lập Bộ phận một cửa hoặc Trung tâm Phục vụ hành chính công thì Sở TN&MT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp tỉnh.
Cơ quan thẩm định, quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (cơ quan thẩm định hồ sơ), bao gồm: Cơ quan chuyên môn về tài nguyên nước thuộc Bộ TN&MT có trách nhiệm tổ chức thẩm định và quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ TN&MT.
Sở TN&MT có trách nhiệm tổ chức thẩm định và quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Kinh phí chi cho hoạt động thẩm định hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được lấy từ nguồn thu phí khai thác, sử dụng nguồn nước.
Thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
Chia sẻ về quy định thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, bà Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước cho biết, theo Nghị định 54, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được thông báo, nộp sau khi công trình đi vào vận hành và có quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sau khi nhận được quyết định phê duyệt, điều chỉnh, truy thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, Cục thuế địa phương nơi có công trình khai thác tài nguyên nước ban hành thông báo nộp tiền cấp quyền gửi tổ chức, cá nhân nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Theo quy định tại Nghị định 54, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được nộp hằng năm theo số tiền được ghi trong quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Căn cứ khả năng của mình, chủ giấy phép lựa chọn phương thức nộp tiền một lần trong năm, hai lần trong năm hoặc nộp một lần cho cả thời gian được phê duyệt. Việc nộp tiền một lần cho cả thời gian phê duyệt tiền cấp quyền do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tiền cấp quyền quyết định trên cơ sở đề xuất của chủ giấy phép và được quy định trong quyết định phê duyệt tiền cấp quyền.
Đặc biệt, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là một loại chi phí được xác định trong giá thành sản xuất của chủ giấy phép.
Ông Lê Bá Phúc - Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên - Huế:
Luật Tài nguyên nước 2023 giúp địa phương quản lý chặt chẽ, khoa học, tránh thất thoát tài nguyên nước
Ông Lê Bá Phúc -Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên - Huế
Nguồn tài nguyên nước của tỉnh khá phong phú, nhất là tài nguyên nước mặt của hệ thống sông Hương và tài nguyên nước dưới đất được phân bố tương đối đều trên địa bàn toàn tỉnh.
Thời gian qua, tỉnh đã cấp 3 giấy phép thăm dò nước dưới đất; 7 giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất và 16 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt. Sở TN&MT đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền hơn 6,8 tỷ đồng.
Luật Tài nguyên nước 2023 và Nghị định 54/2024/NĐ-CP đã thể chế hóa được quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, vì thế, tỉnh kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc khai thác, sử dụng bền vững, đảm bảo an ninh nguồn nước cho hiện tại và tương lai. Trong đó, tỉnh đang phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới đã và đang xây dựng, hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng ngày càng mở rộng. Kỳ vọng Luật Tài nguyên nước sẽ hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với dân số ngày càng tăng của tỉnh, giải quyết vấn đề thiếu nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất...
Thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo cơ quan chuyên môn thẩm định, quản lý hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác tài nguyên nước, thăm dò nước dưới đất, hành nghề khoan nước dưới đất và hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Kiểm tra, thanh tra, đôn đốc việc chấp hành pháp luật về thực hiện quy định của giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất, giấy phép khai thác tài nguyên nước, giấy phép thăm dò nước dưới đất, kê khai, đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước, dịch vụ về tài nguyên nước... Cập nhật thông tin, dữ liệu của giấy phép thăm dò, khai thác nước, giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước quốc gia.
Mặt khác, cải cách quy trình về thủ tục hành chính để có thể ứng dụng tối đa công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến, hướng tới cung cấp toàn bộ thông tin về thủ tục hành chính trên môi trường mạng. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn phối hợp với UBND cấp huyện, UBND cấp xã tổ chức việc thực hiện phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai trên ứng dụng kê khai, đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc địa bàn nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả, nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Ông Phạm Nam Huân - Phó Giám đốc Sở TN&MT TP. Cần Thơ:
Chú trọng cấp phép khai thác tài nguyên nước
Ông Phạm Nam Huân -Phó Giám đốc Sở TN&MT TP. Cần Thơ
Thời gian qua, TP. Cần Thơ đã triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, cấp phép khai thác và sử dụng tài nguyên nước, phục vụ mục tiêu phát triển kính tế - xã hội của thành phố.
Cụ thể, TP. Cần Thơ hiện đang tiếp tục triển khai thực hiện các dự án, đề án lập danh mục các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ, các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; lập bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; khoanh định vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất; xây dựng hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước; đồng thời, siết chặt công tác cấp, gia hạn giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước mặt, nước dưới đất; không cấp mới, gia hạn các giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước dưới dất ở những nơi có hệ thống nước máy đi qua đảm bảo cung cấp đủ về số lượng và chất lượng. Từ đầu năm 2024 đến nay, TP. Cần Thơ đã cấp 4 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt tổng lưu lượng 22.680 m3/ngày đêm; gia hạn 1 giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất lưu lượng 500 m3/ngày đêm; phê duyệt 9 hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Có thể nói tài nguyên nước có vai trò, vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như của quốc gia và đã được luật hóa trong Luật Tài nguyên nước 2012 và gần đây nhất là Luật Tài nguyên nước 2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Luật sẽ giúp các địa phương khắc phục một số khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý, cấp phép khai thác và sử dụng tài nguyên nước; huy động nguồn lực để hoàn thiện, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính ngành nước theo hướng quản trị thông minh trên nền tảng công nghệ số; thu hút nguồn lực xã hội đầu tư phát triển ngành nước và tái sử dụng nguồn nước; quyền lợi và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân từ hoạt động cải tạo phục hồi nguồn nước, bảo vệ, phòng chống tác hại do nước gây ra; đặc biệt, các quy định rõ ràng, dễ hiểu của Luật Tài nguyên nước 2023 sẽ mang tính khả thi cao trong quá trình triển khai thực hiện Luật; đồng thời, thúc đẩy đầu tư, xã hội hóa đi đôi với tăng cường bảo vệ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn thành phố.
Ông Lê Sỹ Nghiêm - Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa:
Quản lý tài nguyên nước hiệu quả
Ông Lê Sỹ Nghiêm -Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa
Hàng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa đã tổ chức triển khai Đo triều - mặn trên hệ thống sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Kết quả đo triều mặn được cập nhật gửi đến UBND cấp huyện và các sở ban ngành kịp thời để chỉ đạo các đơn vị thủy nông, các đơn vị khai thác, sử dụng nước vận hành hợp lý các công trình khai thác nước thuộc vùng sông ảnh hưởng của thuỷ triều trên hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Bạng để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong vùng.
Bên cạnh đó Sở cũng thường xuyên tham mưu, thẩm định cấp Giấy phép tài nguyên nước cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, với tổng số giấy phép 334 giấy (183 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất, 91 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới mặt, 52 Giấy phép thăm dò nước dưới đất, 8 Giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất). Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị đang có hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước và Hồ sơ đề nghị cấp phép của các tổ chức cá nhân. Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, đã thực hiện thanh, kiểm tra 355 cuộc; Số tổ chức, cá nhân được thanh, kiểm tra là 537; đã phát hiện 41 trường hợp có hành vi vi phạm hành chính; số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 1.838.000.000 đồng; số lợi bất hợp pháp đã thu hồi là 600.130.00 đồng.
Thực hiện tính tiền cấp quyền khai thác nước theo quy định tại Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; Nghị định số 41/2021/NĐ-CP ngày 30/3/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017, tham mưu cho UBND tỉnh ban hành 370 Quyết định phê duyệt tiền cấp quyền, với số tiền đã phê duyệt 61 tỷ đồng.
Để Luật Tài nguyên nước 2023 đi sâu vào từng địa phương các cấp, Sở cũng đã ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trên bàn tỉnh, tổ chức 2 lớp tập huấn với số lượng khoảng 800 cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tài nguyên và môi trường. Qua đó, giúp cán bộ, công chức, viên chức phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, cấp xã nắm vững, áp dụng và thực hiện tốt các quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường trong quá trình thực thi nhiệm vụ tại cơ sở.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La:
Tăng thu ngân sách từ tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
Ông Nguyễn Mạnh Hùng -
Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La
Sơn La là địa phương có tiềm năng về tài nguyên nước với 35 suối lớn, 2 sông lớn là sông Đà dài 280km, sông Mã dài 90km với 17 phụ lưu chảy qua. Từ một tỉnh "trắng" giấy phép, đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có khoảng 175 giấy phép khai thác tài nguyên nước còn hiệu lực. Đã ban hành 81 quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền trên 5,8 tỷ đồng.
Tuy nhiên, quá trình triển khai Luật Tài nguyên nước 2012, công tác tính tiền cấp quyền khai thác còn một số điểm hạn chế. Theo cách tính cũ, nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho mục đích sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp không thuộc đối tượng nộp tiền cấp quyền; đồng thời, mức thu theo quy định với một số chủ giấy phép rất thấp, khoảng 5 - 10 triệu đồng/1 giấy phép thời hạn 5 - 7 năm. Ngoài ra, chưa có chế tài cụ thể với việc khai thác tài nguyên nước của hộ gia đình.
Luật Tài nguyên nước 2023 và Nghị định 54/2024/NĐ-CP đã gỡ khó cho các địa phương nói chung, Sơn La nói riêng trong công tác đăng ký, cấp phép, tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Đã bổ sung công tác kê khai tài nguyên nước với việc khai thác quy mô hộ gia đình, cá nhân. Đặc biệt, đã quy định đối tượng, mức tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho mục đích sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp.
Trước thời điểm Luật Tài nguyên nước có hiệu lực thi hành, Sở TN&MT đã trình UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật; giao rõ nhiệm vụ cho các sở ngành, các địa phương tập trung tuyên truyền, phổ biến Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy định chi tiết.
Hiện nay, Sở TN&MT đang rà soát các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ cho phù hợp; trình UBND tỉnh điều chỉnh nội dung liên quan đến vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; tăng cường tuyên truyền, phổ biến đến 4 nhóm đối tượng liên quan đến khai thác tài nguyên nước, gồm: công trình thủy điện, thủy lợi, các công trình cấp nước tập trung và các chủ giấy phép khác.
Cùng với đó, tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước để quản lý các hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, hành nghề khoan nước dưới đất. Góp phần khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên nước theo hướng bền vững.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
|