Bộ Tài nguyên và Môi trường được Chính phủ giao chủ trì xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), đến nay, Bộ đã hoàn thiện dự thảo (lần 2) dự án Luật. Dự thảo đang được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và đông đảo người dân trong và ngoài nước trước khi trình Chính phủ xem xét, trình Quốc hội cho ý kiến.
Cần thiết được cập nhật, sửa đổi, bổ sung
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2013 đến nay.
Qua gần 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu, 63% lượng nước được hình thành ở bên ngoài lãnh thổ, chất lượng tài nguyên nước suy giảm đặt ra nhiều thách thức lớn. Nhiều chủ trương mới về quản lý tài nguyên và yêu cầu thực tiễn về bảo vệ, phục hồi để bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Thực tế đó, đòi hỏi pháp luật về tài nguyên nước và một số Luật liên quan đến quản lý, bảo vệ tài nguyên nước cần thiết phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện.
Ảnh minh hoạ
Bên cạnh đó, do các mối quan hệ kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước nên Luật Tài nguyên nước đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như:
Một số quy định của pháp luật tài nguyên nước không còn phù hợp với yêu cầu của thực tế và với pháp luật có liên quan, cần phải bổ sung như quy định về quy định vật thể chứa nước (dòng sông, tầng chứa nước); quy hoạch tài nguyên nước; cấp giấy phép tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước; bảo vệ các dòng sông, tầng chứa nước, quản trị nước thông minh, chuyển đổi số, dự báo nguồn nước phục vụ điều hòa phân bổ tài nguyên nước cho sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…
Ngoài ra, thể chế, chính sách hiện nay chưa được tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước. Điều này gây chồng chéo trong quản lý, phân định thẩm quyền, trách nhiệm của từng Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nguồn nước, quản lý hoạt động khai thác, quản lý hệ thống cấp nước, xử lý nước thải,…
Cùng với đó, các vấn đề mang tính liên ngành, liên tỉnh, địa phương như: quy hoạch, phát triển, khôi phục rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn sinh thủy; bảo vệ nguồn nước trong quá trình thực hiện các dự án thủy điện, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản,… chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan quản lý tài nguyên nước với các cơ quan, bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, nhất là còn sự giao thoa, chưa làm rõ được đối tượng quản lý về nguồn nước và công trình thủy lợi giữa lĩnh vực tài nguyên nước và thủy lợi.
Mặc dù, đã có sự phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành về quản lý tài nguyên nước, song trên thực tế còn chồng chéo về nhiệm vụ và bất cập trong phối hợp giữa các cơ quan. Cơ chế phối hợp (cả trong xây dựng chính sách và triển khai thực hiện) giữa các Bộ/ngành đối với các hoạt động có liên quan đến tài nguyên nước trên lưu vực sông còn chưa đồng bộ và còn giao thoa, chồng lấn, nhất là giữa lĩnh vực tài nguyên nước, thủy lợi, thủy điện đặc biệt là việc thực thi trong thực tiễn gây lúng túng trong thời gian qua.
Một số quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 có giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính thống nhất. Thiếu khung pháp lý cho an ninh tài nguyên nước trong bối cảnh tài nguyên nước của nước ta đang phải chịu nhiều thách thức như: phụ thuộc lớn vào nước ngoài; phân bố nước không đều theo không gian, thời gian; tác động của biến đổi khí hậu; suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước; mâu thuẫn sử dụng nước trên lưu vực sông; khả năng tiếp cận nước sạch an toàn chưa cao; hiệu quả sử dụng nước thấp; chưa có chính sách, quy định cụ thể nhằm tính toán đầy đủ, định giá giá trị của tài nguyên nước.
Điều này dẫn đến các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khai thác, sử dụng nước không xác định rõ vai trò, giá trị của nước; chưa có cơ sở tính toán đủ giá thành sản phẩm (vì chưa coi nước là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất); chưa có chính sách cụ thể, rõ ràng về sử dụng và phân bổ nguồn thu cho hoạt động bảo vệ nguồn sinh thủy.
Việc phát triển kinh tế nước, coi sản phẩm nước là hàng hóa thiết yếu, cần được quản lý, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế đầu tư vào ngành nước nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn nước chưa có chính sách cụ thể để thực hiện…
Ảnh minh hoạ
Thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hóa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả.
Đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm.
Đồng thời, tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy…).
Chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.
Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của Nhà nước.
Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đủ cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề về tài nguyên nước đặt ra của giai đoạn phát triển mới; bảo đảm tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo hành lang pháp lý đồng bộ về tài nguyên nước, thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân.
Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, khuyến khích sử dụng nước tuần hoàn nhằm nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của Nhà nước, hướng tới Nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện.
Theo nguồn https://baotainguyenmoitruong.vn/
|
Sáng ngày 21/09/2022 tại Trụ sở Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia đã diễn ra cuộc họp về kế hoạch đưa 02 mạng quan trắc tài nguyên nước vào hoạt động năm 2023. Chủ trì cuộc họp là Phó Tổng giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Triệu Đức Huy, cùng tham gia có đại diện lãnh đạo Ban Kế hoạch – Tài chính, Ban Quan trắc giám sát tài nguyên nước, Trung tâm Cảnh báo và Dự báo tài nguyên nước; Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung, miền Nam tham dự trực tuyến.
Phó tổng giám đốc Triệu Đức Huy phát biểu chỉ đạo cuộc họp.
Phát biểu mở đầu cuộc họp, Phó tổng giám đốc Triệu Đức Huy cho biết, 02 hệ thống mạng quan trắc tài nguyên nước gồm: hệ thống 49 điểm quan trắc với 155 công trình quan trắc thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long và hệ thống 66 điểm quan trắc với 81 công trình quan trắc thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Hệ thống quan trắc tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn thành đầu tư năm 2021, còn hệ thống quan trắc tài nguyên nước vùng duyên hải Nam Trung Bộ được thực hiện từ đầu năm 2022, dự kiến sẽ hoàn thành trong tháng 10, năm 2022. Để xây dựng và hoàn thiện mạng lưới quan trắc tài nguyên nước dưới đất thống nhất, đồng bộ trên phạm vi toàn quốc, Phó Tổng Giám đốc chỉ đạo các đơn vị tham gia thực hiện nhanh chóng thực hiện công việc đúng tiến độ, hoàn thiện hồ sơ bàn giao, đề án hoạt động của các vùng quan trắc sớm đưa vào hoạt động năm 2023.
Ông Vũ Văn Sơn, Trưởng Ban Kế hoạch – Tài chính, phát biểu tại cuộc họp.
Theo ông Vũ Văn Sơn, Trưởng Ban Kế hoạch – Tài chính, hệ thống mạng quan trắc tài nguyên nước được bàn giao sẽ gồm các công trình, trang thiết bị quan trắc tự động liên tục. Việc bàn giao các công trình quan trắc thực hiện theo đúng quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và các yêu cầu kỹ thuật khác. Các đơn vị được bàn giao cần bám sát với nhà thầu xây dựng tường rào, lắp đặt thiết bị quan trắc vùng duyên hải Nam Trung Bộ để đạt tiến độ kết thúc trong tháng 10, tiến hành chạy thử trong tháng 11, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan, rà soát lại các nội dung đã xây dựng mạng quan trắc vùng đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể là việc xác định, phân loại các công trình quan trắc được xây mới hay nâng cấp, kiểm tra tình hình hoạt động của các thiết bị, quy trình vận hành, tổ chức thực hiện các thủ tục bàn giao công trình để đưa vào khai thác sử dụng như kế hoạch đề ra.
Báo cáo tại cuộc họp, đại diện các đơn vị được bàn giao cho biết, đến thời điểm hiện tại các dạng công tác đang được thực hiện theo đúng tiến độ. Các đơn vị sẽ có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý, vận hành các hệ thống mạng quan trắc để đưa vào khai thác, sử dụng theo quy định, kỹ thuật về quan trắc tài nguyên nước nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin, diễn biến số lượng, chất lượng nước phục vụ công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ và phát triển tài nguyên nước bền vững.
Toàn cảnh cuộc họp.
Theo nguồn http://nawapi.gov.vn/
|
Trong 2 ngày 19 và 20/9 tại Hà Nội, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức cuộc họp với chuyên gia luật quốc tế để hỗ trợ xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh và Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến đồng chủ trì cuộc họp.
Tham dự cuộc họp, về phía WB có ông Stephen Hodgson - Chuyên gia về luật nước và môi trường quốc tế. Ông Stephen Hodgson đã có nhiều kinh nghiệm làm việc xây dựng luật về nước tại nhiều quốc gia trên thế giới như: Liên Minh châu Âu (Anh, Bỉ, Ukraina), Châu Phi, Châu Á (Pakistan, Bhutan, Campuchia,...).
Tại cuộc họp, hai bên đã thảo luận chi tiết về nội dung dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) do Bộ Tài nguyên và Môi trường đang chủ trì xây dựng. Đặc biệt là các nội dung trao đổi, phân tích chuyên sâu về kinh tế nước, giá trị của nước, tài chính nước, ….
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh và Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến đồng chủ trì cuộc họp
Phát biểu tại buổi làm việc, ông Stephen Hodgson cho rằng, tài nguyên nước về bản chất là một loại hàng hoá thị trường mang những tính chất đặc biệt. Tính chất đặc biệt của hàng hóa nước được thể hiện ở việc coi nước là một hàng hóa công, tư, hay một dạng hàng hóa bán công/tư, việc phân loại này sẽ phụ thuộc vào nguồn nước, mục đích sử dụng cũng như bối cảnh cụ thể của từng quốc gia. Theo đó, làm tốt vấn đề kinh tế nước sẽ quyết định thái độ sử dụng nước. Nếu coi nước là hàng hóa không có giá trị, “cho không” thì sẽ dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí tài nguyên nước. Luật nên quy định rõ mọi tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước thì phải có nghĩa vụ đóng góp tài chính để bảo vệ tài nguyên nước. Đồng thời, các khoản thu tài chính tối thiểu phải bằng chi phí bỏ ra để quản lý tài nguyên nước.
Việt Nam được xem là nước xuất khẩu nhiều nước nhất thế giới (xét về khía cạnh đóng góp của tài nguyên nước đối với các mặt hàng hoá được xuất khẩu). Do vậy, để đạt được an ninh nguồn nước, Việt Nam cần phải có những hành động kịp thời để tính đúng, tính đủ giá trị của nước dựa trên nguyên tắc người sử dụng, người hưởng lợi từ nước phải trả phí.
Ông Stephen Hodgson - Chuyên gia về luật nước và môi trường quốc tế trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng luật nước
Bên cạnh đó, cần làm rõ vai trò của tài nguyên nước trong nền kinh tế, coi nước là một sản phẩm đầu vào. Các quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch tổng thể phải tính đến giá trị tài nguyên nước đóng góp vào các hoạt động kinh tế - xã hội.
Báo cáo “Việt Nam: Hướng tới một hệ thống nước có thích ứng, sạch và an toàn” của WB năm 2019 cũng cho thấy, với mỗi đơn vị (m3) nước, Việt Nam chỉ tạo ra 2,37 đôla GDP, khoảng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla. Khi nguồn tài nguyên nước bị hạn chế, cần chú trọng hơn đến hiệu suất sử dụng nước, tạo ra nhiều giá trị hơn trên mỗi đơn vị nước sử dụng cùng với đảm bảo giảm nhu cầu nước tổng thể.
Phát biểu chủ trì cuộc họp, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, một trong những điều mà dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) hướng đến là xác định rõ vai trò, giá trị kinh tế của tài nguyên nước. Việc sử dụng nước là bình đẳng đối với mọi trường hợp khai thác, sử dụng và hưởng lợi từ nước nhằm sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên nước. Bên cạnh đó, dự thảo Luật tài nguyên nước sửa đổi cũng hướng đến mở rộng cấp giấy phép tài nguyên nước theo các quy mô đối với những trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt nước (trên sông, ven sông, hồ chứa,…) ảnh hưởng tới việc thay đổi, thu hẹp dòng chảy nhằm quản lý, bảo vệ tài nguyên nước.
Toàn cảnh cuộc họp
Tại cuộc họp, Lãnh đạo Cục và các cán bộ tham dự cũng đề nghị phía chuyên gia WB chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong việc cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, cách tính phí nước,…
Theo nguồn https://monre.gov.vn/
|
Nước ngầm chiếm khoảng 30% lượng nước ngọt của thế giới. Còn 70% khác bị kẹt lại trong các tảng băng và tuyết, sông băng trên núi và chỉ có 1% được tìm thấy ở sông và hồ. Lượng nước ngầm trung bình chiếm một phần ba lượng nước ngọt mà con người tiêu thụ, nhưng tại một số nơi trên thế giới, tỷ lệ này có thể đạt tới 100%. Nước ngầm là một nguồn tài nguyên thiên nhiên rất quan trọng và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đây là nguồn nước chính cho tưới tiêu và công nghiệp thực phẩm. Nói chung, nước ngầm là nguồn cung cấp nước đáng tin cậy cho nông nghiệp và có thể được sử dụng một cách linh hoạt. Nước ngầm được ước tính sẽ được sử dụng cho khoảng 43% tổng lượng nước sử dụng.
Nghiên cứu, đánh giá, xây dựng bản đồ tiềm năng của nước ngầm luôn là vấn đề quan trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước. Để xác định các khu vực có triển vọng tài nguyên nước dưới đất cho tỉnh Quảng Ngãi, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung đã tiến hành xây dựng sơ đồ tiềm năng nước ngầm ằng ứng dụng GIS.
Sơ đồ tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất của khu vực tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng dựa trên cơ sở 5 yếu tố đầu vào (mật độ lineament và đứt gãy; địa chất thủy văn; độ dốc; mật độ sông suối; sử dụng đất) tích hợp trong GIS để thành lập sơ đồ tiềm năng nước.
Sơ đồ phân vùng tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất được thành lập trên cơ sở phân chia gí trị chỉ số tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất (PUWI) chia thành 5 khoảng như sau:
– Rất thấp: PUWI < 135
– Thấp: PUWI từ 135 – 170
– Trung bình: PUWI từ 170 – 205
– Cao: PUWI: 205 – 240
– Rất cao: PUWI > 240
Kết quả sơ đồ tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất khu vực tỉnh Quảng Ngãi được trình bày trong hình sau:
Sơ đồ tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất khu vực tỉnh Quảng Ngãi.
Kết quả phân tích thống kê chỉ ra rằng diện tích nhóm có tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất ở mức cao và rất cao chiếm 22,3%. Trong khi đó diện tích nhóm có tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất thấp và rất thấp chiếm 60,7%. Nhóm diện tích nhóm có tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất ở mức trung bình chiếm 17,0%. Kết quả thống kê diện tích và tỷ lệ phần trăm diện tích của các nhóm tiềm năng nước ngầm khác nhau tại khu vực tỉnh Quảng Ngãi thể hiện trong bảng sau.
Bảng 1. Bảng thống kê diện tích và tỷ lệ phần trăm diện tích của các nhóm tiềm năng nước ngầm khác nhau tại khu vực tỉnh Quảng Ngãi.
Các nhóm tài nguyên nước dưới đất hay tiềm năng nước ngầm |
Diện tích (km2) |
Tỷ lệ % |
Rất thấp |
809.8 |
15.9 |
Thấp |
2,274.0 |
44.8 |
Trung bình |
863.7 |
17.0 |
Cao |
619.2 |
12.2 |
Rất cao |
513.2 |
10.1 |
Tổng |
5079.9 |
100.0 |
Kết quả tính toán thống kê diện tích các nhóm tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất theo các đơn vị hành chính cấp huyện cho thấy:
– Huyện Bình Sơn có diện tích các nhóm tiềm năng nước ngầm cao và rất cao lớn nhất trong tỉnh với 219,3 km2;
– Tiếp đó là huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh, Mộ Đức, thành phố Quảng Ngãi, Tây Trà, Tư Nghĩa và Nghĩa Hành với tổng diện tích các nhóm tiềm năng nước ngầm cao và rất cao lớn nhất lần lượt là 154,7 km2; 146,6 km2; 143,2 km2; 143,1 km2;125,1 km2 và 118,2 km2.
Kết quả phân tích thống kê diện tích các nhóm tiềm năng nước ngầm hay tài nguyên nước dưới đất theo các đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Ngãi được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 2. Bảng thống kê diện tích và tỷ lệ phần trăm diện tích của các nhóm tiềm năng nước ngầm khác nhau theo đơn cị hành chính cấp huyện, khu vực tỉnh Quảng Ngãi.
TT
|
Huyện/Thành phố |
Diện tích các nhóm tài nguyên nước dưới đất hay tiềm năng nước ngầm (Km2 ) |
Rất thấp |
Thấp |
Trung bình |
Cao |
Rất cao |
1 |
Ba Tơ |
312.0 |
650.8 |
144.4 |
17.8 |
0.1 |
2 |
Bình Sơn |
48.9 |
70.0 |
89.3 |
110.4 |
108.9 |
3 |
Đức Phổ |
84.4 |
72.4 |
51.7 |
94.5 |
60.3 |
4 |
Minh Long |
5.0 |
153.0 |
44.7 |
13.8 |
0.7 |
5 |
Mộ Đức |
17.2 |
26.2 |
27.9 |
86.2 |
56.9 |
6 |
Nghĩa Hành |
32.2 |
59.4 |
25.1 |
62.3 |
55.9 |
7 |
Quảng Ngãi |
0.3 |
3.4 |
8.3 |
43.7 |
99.4 |
8 |
Sơn Hà |
85.5 |
502.1 |
144.3 |
21.4 |
0.3 |
9 |
Sơn Tây |
118.3 |
222.3 |
36.8 |
2.4 |
0.0 |
10 |
Sơn Tịnh |
2.4 |
34.1 |
59.5 |
98.4 |
48.2 |
11 |
Tây Trà |
25.4 |
188.0 |
118.0 |
7.0 |
0.2 |
12 |
Trà Bồng |
75.1 |
244.0 |
82.9 |
15.8 |
2.6 |
13 |
Tư Nghĩa |
3.1 |
48.4 |
30.7 |
45.5 |
79.6 |
|
Tổng |
809.8 |
2274.0 |
863.7 |
619.2 |
513.2 |
Trên cơ sở phục vụ cho công tác khảo sát, đánh giá và triển khai thực địa, công tác phân tích đánh giá mức độ tin cậy của kết quả trên cơ sở so sánh với số liệu các điểm lộ đã thu thập. Đồng thời kết quả đánh giá mức độ tin cậy được tiến hành chi tiết đến cấp xã trên cơ sở tổng diện tích khu vực có tiềm năng nước ngầm cao và rất cao chiếm trên 70% diện tích mỗi xã.
Kết quả cho thấy trong tổng số 184 xã của toàn tỉnh Quảng Ngãi, thì có 69 xã có tiềm năng nước ngầm cao. Đối với 69 xã này với mức độ tin tưởng của kết quả giải đoán viễn thám là khá cao (>0,7).
Như vậy, kết quả nghiên cứu đã thành lập được sơ đồ địa chất thủy văn và sơ đồ tiềm năng nước ngầm hay nước dưới đất khu vực tỉnh Quảng Ngãi. Đây sẽ là tiền đề cho các đánh giá chi tiết sau này và tiềm năng nước ngầm. Trên cơ sở đó giảm khối lượng công tác điều tra, đặc biệt ở các vùng có điều kiện giao thông kém, đi lại khó khăn, vùng có điều kiện thi công phức tạp, mức độ tài liệu điều tra địa chất, địa chất thuỷ văn hạn chế.\
Theo nguồn http://nawapi.gov.vn/
|
Chiều ngày 15/09/2022 tại trụ sở Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, đã diễn ra cuộc họp hội đồng thẩm định cấp Bộ thông qua dự thảo Quy hoạch tổng hợp Lưu vực sông Hồng – Thái Bình đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050. Chủ trì cuộc họp là Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành. Tham dự có đại diện lãnh đạo Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Cục quản lý tài nguyên nước và các chuyên gia trong lĩnh vực nước mặt, nước dưới đất.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành chủ trì cuộc họp
Lưu vực sông Hồng – Thái Bình là một lưu vực sông liên quốc gia chảy qua 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Lào với tổng diện tích tự nhiên là 169.000 km2. Trong đó, phần lưu vực nằm ở Trung quốc là 81.200 km2 chiếm 48% diện tích toàn lưu vực; phần lưu vực nằm ở Lào là 1.100 km2 chiếm 0,7% diện tích toàn lưu vực; phần lưu vực nằm ở Việt Nam là 88.680 km2 chiếm 51,3% diện tích lưu vực.
Bên cạnh đặc điểm phân bố nguồn nước không đều giữa mùa khô, mùa mưa, nguồn nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình còn đang chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu, đặc biệt vào mùa khô nguồn nước có xu hướng giảm, cạn kiệt nguồn nước xẩy ra trên diện rộng và tình hình lũ, lụt trong mùa mưa diễn biến phức tạp hơn điển hình như ở các tỉnh vùng thượng lưu sông Hồng. Ngoài ra việc khai thác, sử dụng nước ở các quốc gia nằm trên thượng nguồn lưu vực sông đang có tác động lớn đến nguồn nước chảy về Việt Nam gây nên tình trạng cạn kiệt nguồn nước vào mùa khô.
Báo cáo tại cuộc họp, ông Nguyễn Ngọc Hà – Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia cho biết, sự diễn biến phức tạp của nguồn nước, tác động của biến đổi khí hậu và khai thác, sử dụng nước của các quốc gia nằm trên thượng nguồn lưu vực sông làm cho lượng nước mùa khô ngày càng có xu thế suy giảm. Trong khi đó, lượng nước phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa, sản xuất công nghiệp, phát triển thủy điện ngày càng tăng nhanh về cả số lượng và chất lượng, các vấn đề tài nguyên nước trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình ngày càng diễn biến phức tạp.
Ngoài ra, một số quy hoạch có khai thác, sử dụng nước ở các địa phương đã và đang tổ chức thực hiện như quy hoạch thủy lợi, quy hoạch cấp nước nông thôn, quy hoạch cấp nước đô thị, tuy nhiên các quy hoạch này còn nhiều bất cập, bị điều chỉnh và hết hiệu lực khi quy hoạch tỉnh được ban hành. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây đã có nhiều đề xuất xây dựng các công trình trên sông như việc đề xuất đầu tư xây dựng tuyến đường thuỷ xuyên Á và thuỷ điện trên sông Hồng không có đủ căn cứ để xem xét.
Với áp lực về phát triển kinh tế – xã hội dẫn tới nhu cầu khai thác, sử dụng nước ngày càng gia tăng, dự báo đến 2050 tăng lên 1,12 lần so với hiện nay. Bên cạnh đó, các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội làm gia tăng xả nước thải vào nguồn nước, ô nhiễm nguồn nước, điển hình như sông Cầu, sông Đáy, sông Nhuệ … một số chỉ tiêu ô nhiễm đang vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,6 – 2,3 lần (COD, BOD5, NO2-…). Mặt khác, việc khai thác, sử dụng nước chưa có quy hoạch và chưa quy định chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu càng làm cho nguồn nước ngày càng bị suy thoái, ô nhiễm nghiêm trọng, làm gia tăng nguy cơ mất an ninh nguồn nước lưu vực sông.
Trong mùa kiệt mực nước sông Hồng và các sông chính hạ thấp làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác, sử dụng nguồn nước mặt của các hệ thống công trình ven sông. Xu thế suy giảm mực nước ngày càng gia tăng làm việc điều tiết các hồ chứa thượng lưu rất phức tạp. Khan hiếm nước trong mùa khô và thiếu nước sinh hoạt ở các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa đang diễn ra ở nhiều nơi trên lưu vực sông.
Nhiều công trình khai thác, sử dụng nước chưa được vận hành, khai thác theo đúng thiết kế nhất là các hồ chứa thủy lợi, một số hồ chứa vận hành, khai thác chỉ khoảng từ 68% – 75% năng lực thiết kế công trình;….
Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Nguyễn Ngọc Hà báo cáo tại cuộc họp
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đã góp ý chi tiết nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung, hồ sơ sản phẩm của Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng – Thái Bình giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hội đồng đồng ý thông qua Quy hoạch sau khi đơn vị thực hiện tiếp thu, chỉnh sửa các góp ý của các thành viên hội đồng trước khi trình phê duyệt.
Theo đó, các chuyên gia cho rằng nội dung Quy hoạch cần chỉ rõ về nhiệm vụ, giải pháp lộ trình, kỳ quy hoạch để thực hiện. Trong đó, cần lưu ý những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện để giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn, lãng phí sử dụng nước trên lưu vực; các giải pháp chi tiết phục hồi các dòng sông bị ô nhiễm; vấn đề sử dụng nước tạo cảnh quan;…
Bên cạnh đó, đề xuất cụ thể về ngưỡng khai thác, dòng chảy tối thiểu cần duy trì trên từng đoạn sông, các vị trí trên các đoạn sông cần phải cập nhật mặt cắt phục vụ công tác quản lý, giám sát thực hiện quy hoạch; đối với nước dưới đất, cần phân vùng chi tiết hơn, xác định trữ lượng có thể khai thác, và xác định quy mô, mật độ công trình khai thác cho từng vùng.
Đồng thời, Quy hoạch phải xem xét tính đến quy hoạch công trình phát triển tài nguyên nước trên dòng chính sông Hồng kết hợp tạo nguồn cung cấp nước cho hệ thống lấy nước ven sông, tạo cảnh quan ven sông và những tác động của nó về mặt lợi ích kinh tế-xã hội môi trường và tác động đến tiêu thoát lũ trên dòng chính sông Hồng…
Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành ghi nhận các ý kiến đóng góp của các thành viên Hội đồng về dự thảo Quy hoạch đảm bảo chất lượng và phù hợp với các quy hoạch cấp cao hơn, cũng như các quy hoạch của các ngành có liên quan.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành yêu cầu Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia cùng với các đơn vị tài nguyên nước của Bộ nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các chuyên gia sớm hoàn thiện xây dựng Quy hoạch góp phần đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 10-2022.
Ảnh tại cuộc họp:
Toàn cảnh cuộc họpTheo nguồn http://nawapi.gov.vn/
|
|