(TN&MT) - UBND tỉnh Hòa Bình yêu cầu các sở ngành, đơn vị, địa phương liên quan tổ chức thực hiện các giải pháp cấp bách, giảm thiểu nguy cơ thiếu nước cấp cho hạ du các lưu vực sông theo đề nghị của Bộ TN&MT.
Hạ lưu hồ thủy điện Hòa Bình, nhiều thời điểm mực nước xuống thấp kỷ lục, để lộ những bãi cát rộng, lòng sông trơ sỏi, đá.
Tài nguyên nước (TNN) ở tỉnh Hòa Bình được đánh giá là khá dồi dào, có thể khai thác để phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế. Trong đó, nguồn nước mặt chủ yếu từ các lưu vực sông chính như: sông Đà, sông Bôi, sông Bưởi, sông Bùi chảy qua địa bàn tỉnh và 544 hồ chứa thủy lợi, khoảng 1.300 ha ao, hồ nhỏ. Đối với nguồn nước đầm, ao, hồ, toàn tỉnh có 546 hồ chứa thủy lợi, trong đó có 39 hồ chứa dung tích hơn 1 triệu m3 và 12 hồ chứa thủy điện.
Đặc biệt, hồ chứa thủy điện Hòa Bình có dung tích lớn nhất là 9,862 tỷ m3, ngoài nhiệm vụ cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Hòa Bình, hồ còn có nhiệm vụ điều tiết, cung cấp nước cho vùng đồng bằng sông Hồng.
Đối với TNN dưới đất trên địa bàn tỉnh phân bố không đồng đều và khá đa dạng, với 21 tầng chứa nước có khả năng cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trên toàn tỉnh. Trong đó có 7 tầng chứa có chất lượng, trữ lượng bảo đảm cho khai thác lưu lượng lớn cấp nước cho khu dân cư, khu công nghiệp. Các tầng chứa giàu nước chủ yếu phân bố ở vùng ven sông, suối, vùng đất thấp, bằng phẳng hoặc trong các thung lũng. Còn lại các vùng núi cao, độ dốc lớn là các tầng chứa nghèo, nước thường xuất hiện mạch lộ thiên với lưu lượng nhỏ và biến đổi theo mùa.
Tuy nhiên, hiện nay biến đổi khí hậu toàn cầu đang khiến nguồn nước trên địa bàn tỉnh ngày càng cạn kiệt. Tình trạng hạn hán những năm gần đây khiến mùa khô năm 2023 ở nhiều vùng quê trong tỉnh không chỉ thiếu nước sinh hoạt, mà nhiều hồ chứa cũng rơi vào cảnh trơ đáy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp.
Ở hạ lưu hồ thủy điện Hòa Bình, nhiều thời điểm mực nước xuống thấp kỷ lục, để lộ những bãi cát rộng, lòng sông trơ sỏi, đá.
Trước thực tế trên, nhằm phòng chống hạn hán thiếu nước trong mùa khô 2024, Sở TN&MT đã triển khai các nội dung theo chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Công văn số 10707/BTNMT-TNN. Theo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, xây dựng dự thảo văn bản trình UBND tỉnh Hòa Bình về việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu nguy cơ thiếu nước cấp cho hạ du lưu vực sông trong mùa cạn năm 2024.
Mùa khô năm 2023 kiến nhiều vùng quê trong tỉnh thiếu nước sinh hoạt.
Theo đó, Sở TN&MT đã tiến hành rà soát, nâng cao năng lực, hiệu quả lấy nước phù hợp với điều kiện nguồn nước của các hồ chứa và trên các lưu vực sông, bảo đảm cấp nước an toàn cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân ở hạ du các lưu vực sông.
Sở TN&MT cũng yêu cầu các Sở, Ban, Ngành, UBND các huyện, thành phố, Công ty TNHH Một thành viên lập kế hoạch sử dụng nước phù hợp trong điều kiện thiếu hụt nguồn nước, chỉ đạo các đơn vị quản lý, vận hành công trình thủy lợi trên địa bàn thường xuyên kiểm kê nguồn nước trong hệ thống công trình thủy lợi và thực hiện việc lấy nước phù hợp thời gian, kế hoạch vận hành xả nước của các hồ chứa thượng lưu.
Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các cơ quan chuyên môn theo dõi chặt chẽ các thông tin dự báo khí tượng thủy văn và nguồn nước, đánh giá cân đối nguồn nước tại các hồ chứa thủy lợi để điều chỉnh kế hoạch sử dụng nước phù hợp với diễn biến nguồn nước trên lưu vực sông; tính toán lập kế hoạch lấy nước cụ thể phục vụ sản xuất đông xuân năm 2024.
Sở TN&MT cũng phối hợp Sở Xây Dựng, Công ty TNHH Một thành viên khai thác công trình thủy lợi Hòa Bình và Công ty Thủy Điện Hòa Bình thực hiện theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến khí tượng thủy văn, nguồn nước. Trên cơ sở đó chủ động tính toán, xây dựng phương án vận hành tích nước của các hồ chứa trong thời kỳ cuối mùa lũ và phương án vận hành điều tiết các hồ chứa đảm bảo nguồn nước cấp cho hạ du trong mùa cạn năm 2024.
Ông Nguyễn Văn Ngọc, Trưởng phòng tài nguyên nước và khí tượng, Sở TN&MT tỉnh Hòa Bình cho biết, tới đây Sở TN&MT sẽ phối hợp với các đơn vị quản lý, vận hành các công trình thủy lợi phía hạ du theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến khí tượng thủy văn, dự báo, tính toán, xây dựng các kịch bản vận hành, điều tiết hồ. Đồng thời, cung cấp thông tin, số liệu theo quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa; bảo đảm yêu cầu cấp nước an toàn cho hạ du các lưu vực sông đến cuối mùa cạn 2024.
Nguồn: baotainguyenmoitruong
|
Hiện nay, nguồn nước vùng hạ lưu sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều thách thức về an ninh nguồn nước. Để giải quyết vấn đề trên, TS. Nguyễn Văn Hồng – Phân Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu (TP. HCM) và cộng sự đã đề xuất một số phương án giảm nhẹ tình trạng này.
Theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Văn Hồng – Phân Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu (TP. HCM) và cộng sự, nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất chịu tác động rõ nét của biến đổi khí hậu.
Đối với nguồn nước mặt, tổng lưu lượng hàng năm của sông Mê Công đạt khoảng 475 tỷ m3, chuyển trên 450 tỷ m3 nước vào Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Với nguồn nước dưới đất, ĐBSCL được biết đến là một trong những vùng có tiềm năng nước dưới đất lớn nhất cả nước, bao gồm 7 tầng chứa nước chính cùng độ sâu phân bố từ vài chục mét đến 500 – 600m.
Trong đó, các khu vực có tiềm năng nước ngầm ngọt rất lớn gồm: Bạc Liêu, Long An, Đồng Tháp. Cà Mau, Trà Vinh và Cần Thơ với trữ lượng tiềm năng khai thác nước ngọt khoảng 22,5 triệu m3/ ngày đêm, trữ lượng tiềm năng nước lợ, nước mặn khoảng 39 triệu m3/ngày đêm/ và trữ lượng khai thác nước ngọt toàn vùng khoảng 4,5 triệu m3/ ngày đêm.
Tuy nhiên, hiện nay, do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng (NBD), cùng việc gia tăng dân số, chuyển đổi mục đích sử dụng đất (phát triển công nghiệp, đô thị) và việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, đã khiến khu vực hạ lưu sông Cửu Long phải đối mặt với những hệ luỵ nghiêm trọng như: Sụt lún đất; xói mòn bờ sông, bờ biển; xâm nhập mặn.
Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều thách thức về an ninh nguồn nước
Những hệ luỵ trên khiến đời sống nhân dân theo đó bị ảnh hưởng; sản xuất nông nghiệp cũng bị tác động do diện tích canh tác ngập do lũ và thời gian ngập lụt kéo dài; các dự án dòng chính từ việc mở rộng vùng tưới tiêu, xây dựng đập thuỷ điện hay khai thác cát… làm mất 17% diện tích đất ngập nước và một số loài sinh vật quan trọng, trong tương lai sẽ nằm trong danh sách tuyệt chủng. Ước tính tổng lượng phù sa bùn cát sụt giảm do tác động của các công trình thuỷ điện dòng chính sẽ vào khoảng 75%.
Bên cạnh đó, việc phát triển thượng nguồn có nguy cơ chuyển nước từ lưu vực sông MeKong sang các lưu vực sông khác chủ yếu từ Thái Lan và Campuchia, sẽ có tác động bất lợi và gây nghiêm trọng đến ĐBSCL về chế độ dòng chảy, thuỷ văn, bùn, cát, hệ thống thuỷ sinh và hệ sinh thái.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, dưới tác động của BĐKH, quá trình xâm nhập mặn sẽ có xu hướng gia tăng khá mạnh so với thời kỳ nền. Gia tăng lớn nhất trên các sông chính có thể tới khoảng 10 km. Qua nghiên cứu tại tỉnh Vĩnh Long, ranh giới mặn 1% lớn nhất trên sông Cổ Chiên cách TP. Vĩnh Long 5km (mặn lấn sâu hơn thời kỳ nền 9,5 km) và trên sông Hậu qua TP. Cần Thơ 3 km (mặn lấn sâu hơn thời kỳ nền 8,8 km).
Ngoài ra, mạng lưới quan trắc nước dưới đất Quốc gia ở ĐBSCL bao gồm 260 vị trí quan trắc tại các tầng chứa nước chính đang được khai thác ở ĐBSCL, cho thấy dấu hiệu suy giảm mực nước ở các tầng chứa nước chính. Trong đó, tầng chứa nước Pleistocen (Long Mỹ, Hậu Giang) ghi nhận nguy cơ xâm nhập mặn cao, dự báo đến năm 2025, nước dưới đất sẽ có nguy cơ nhiễm mặn chiếm 164 km2/ tổng diện tích phân bố nước ngọt 16.276 km2, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng và Long An.
Nguyên nhân đến từ việc gia tăng dân số cũng dẫn đến thu hẹp đất nông nghiệp, gia tăng nhu cầu sử dụng nước, kèm theo đó là vấn đề về nước thải… và hình thành hiện trạng khan hiếm nước, ô nhiễm nguồn nước. Đây là áp lực rất lớn đối với nguồn nước của ĐBSCL, đặc biệt trong giải quyết vấn đề nước ngọt, ô nhiễm nguồn nước, nhất là ở các kênh, rạch nhỏ, chảy qua các đô thị, khu công nghiệp.
Do đó, để giải quyết tình trạng suy giảm mực nước ngầm, xâm nhập mặn và những thách thức đặt ra cho an ninh nguồn nước tại lưu vực ĐBSCL, TS. Nguyễn Văn Hồng đã đưa ra một số đề xuất như việc, cần chuyển đổi mô hình cây trồng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH; hoàn thiện hệ thống đê điều ven biển (theo hệ thống khép kín) và xây dựng công trình kiểm soát để chủ động kiểm soát độ mặn và tích trữ nước, ứng phó với hạn hán; xây dựng bộ chỉ số an ninh nguồn nước đa mục tiêu và riêng biệt cho toàn vùng ĐBSCL và từng vùng để phục vụ nhu cầu khác cũng như xây dựng và vận hành công tác quan trắc, cảnh báo tài nguyên nước hệ thống, phục vụ vận hành hệ thống thuỷ lợi vùng ĐBSCL.
Nguồn: https://www.monre.gov.vn/Pages/bien-doi-khi-hau-gia-tang-tac-dong-den-tai-nguyen-nuoc.aspx?cm=T%C3%A0i%20nguy%C3%AAn%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành vừa ký ban hành Quyết định số 154/QĐ-BTNMT ngày 17/1/2024 về việc Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện.
Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn
Ban hành kèm theo Quyết định này Danh mục giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu 725 hồ chứa, đập dâng của 644 công trình thủy lợi, thủy điện, cụ thể:
Công trình thủy điện gồm: 685 hồ chứa, đập dâng của 607 công trình.
Công trình thủy lợi gồm: 40 hồ chứa, đập dâng của 37 công trình.
Tại Quyết định cũng quy định rõ trách nhiệm trong theo dõi, giám sát và công bố dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng:
Theo đó trách nhiệm của Cục Quản lý tài nguyên nước: Kiểm tra, giám sát việc bảo đảm dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng; xử lý vi phạm đối với hành vi không bảo đảm dòng chảy tối thiểu theo quy định; Định kỳ rà soát, cập nhật, tổng hợp và trình Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng thuộc thẩm quyền cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt của Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 31 tháng 01 hằng năm. 2.
Trách nhiệm của Văn phòng Bộ: chủ trì, phối hợp với Cục Quản lý tài nguyên nước để đăng tải Quyết định này và tổ chức việc đăng tải, công bố dòng chảy tối thiểu đối với các hồ chứa, đập dâng được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt tại các Quyết định tiếp theo lên Cổng thông tin điện tử của Bộ theo quy định của Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 2064/QĐ-BTNMT ngày 24 tháng 7 năm 2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện.
Nguồn: https://monre.gov.vn/Pages/bo-tn&mt--cong-bo-gia-tri-dong-chay-toi-thieu-o-ha-luu-cac-ho-chua
|
Năm 2023, khi tổ chức Tuần lễ nước thế giới tại Stockholm, Thụy Điển, Đại hội đồng Liên hợp quốc nhấn mạnh đến yếu tố thay đổi tư duy, tìm kiếm sáng tạo trong quản trị tài nguyên nước. Trong bối cảnh khan hiếm nước gia tăng, ảnh hưởng đến an ninh toàn cầu, việc hoàn thiện chính sách pháp luật chính là “gieo những hạt giống đổi mới”, xâp đắp nền móng cho một hệ thống quản trị tài nguyên nước bền vững.
Luật Tài nguyên nước chính thức được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 27/11/2023 được kỳ vọng sẽ mang đến những thay đổi trong quản lý tài nguyên nước giai đoạn tới - giai đoạn mà chúng ta sẽ phải đối mặt với khủng hoảng nước vô cùng khốc liệt, giai đoạn mà nền tảng công nghệ sẽ hỗ trợ đắc lực cho con người trong quản trị tài nguyên… Những hạt giống đổi mới về quản trị tài nguyên nước đang được gieo trồng từ đây…
Luật Tài nguyên nước 2023 gồm 10 chương, 86 điều, đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước thông qua 4 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị Quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022, gồm: Bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hóa ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước và Bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra.
Quản lý tài nguyên nước tổng hợp, thống nhất - Nguyên tắc cốt lõi
Theo Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh, một trong những nguyên tắc cốt lõi của Luật Tài nguyên nước năm 2023 là tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu; phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước, nguồn nước với trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch, xây dựng, vận hành công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, cấp nước nông thôn; Giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, những lỗ hổng trong các luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước, đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia.
Chính vì vậy, Luật đã quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra. Đồng thời quy định rõ quản cái gì, quản như thế nào và ai quản. Theo đó, đã quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước.
Để quản lý tài nguyên nước tổng hợp, thống nhất, một trong những “điểm sáng” được quy định trong Luật đó là nội dung “Bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia”. Nội dung này là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt Luật Tài nguyên nước 2023 trong các chương, điều với mục tiêu đến năm 2030, hướng tới nâng cao mức đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh tài nguyên nước hiệu quả trong khu vực Đông Nam Á và tiệm cận với các nước tiên tiến trên thế giới. Bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường và giảm thiểu rủi ro, tác hại từ các thảm họa do con người và thiên nhiên gây ra liên quan đến nước. Đây cũng là bước thay đổi lớn và rất kịp thời, nhất là trong bối cảnh nguồn nước đang ngày càng có nguy cơ bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm dưới tác động mạnh mẽ bởi quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia thượng nguồn cũng như ảnh hưởng rất lớn của biến đổi khí hậu.
Cùng với đó, để quản lý tốt tài nguyên nước, Luật Tài nguyên nước 2023 đã quy định một trong những công cụ cốt lõi, quan trọng trong việc quản lý, sử dụng, bảo vệ các nguồn nước hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước, đó là “nguyên tắc điều hòa, phân phối tài nguyên nước”. Gắn kết Luật Tài nguyên nước 2023 cùng với hàng loạt các Quy hoạch tài nguyên nước đã được phê duyệt trong 2 năm qua sẽ tạo ra một tổng thể xuyên suốt, toàn diện, bao trùm. Trong đó, Luật Tài nguyên nước 2023 chính là “xương sống”, là hành lang pháp lý quan trọng để quản lý tài nguyên nước tổng thể, tổng hợp, công bằng. Còn quy hoạch tài nguyên nước chính là các “mấu chốt” xuyên suốt trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bắt đầu từ quy hoạch tài nguyên nước, các nhà quản lý tài nguyên nước sẽ xây dựng kịch bản nguồn nước để điều hòa, phân phối tài nguyên nước. Việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước cho các mục đích khai thác, sử dụng nước phải căn cứ vào kịch bản nguồn nước - cơ sở để các bộ, ngành phân bổ, sử dụng hợp lí, tiết kiệm tài nguyên nước, đồng thời tuân theo hạn ngạch khai thác nước nằm trong giấy phép khai thác tài nguyên nước. Đây là bước tiến quan trọng sẽ thay đổi căn bản cách quản lý, cách điều hành nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước
Trong thời đại cách mạng công nghiệp với sự thịnh hành của các công nghệ về dữ liệu lớn (Big Data) hay trí tuệ nhân tạo (AI), trí tuệ nhân tạo vạn vật (AIoT)… mang lại những lợi ích, ứng dụng to lớn, việc quản lý tài nguyên nước cũng cần bắt kịp xu thế chuyển đổi số đó. Chính vì vậy, Luật Tài nguyên nước 2023 đã có những quy định cụ thể nhằm hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định góp phần hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước. Đây là một trong những điểm nổi bật của Luật Tài nguyên nước 2023. Nền tảng công nghệ số sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong việc hỗ trợ các Cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông. Đồng thời, giảm thiểu nhân lực, chi phí vận hành, quản lý.
Hơn nữa, để hành lang pháp lý về bảo vệ nguồn tài nguyên nước thực sự đi vào đời sống xã hội, đi vào lòng dân, nhận được sự hợp tác của người dân trong việc triển khai các chính sách, quy định của pháp luật, với sự thay đổi của các cơ chế chính sách về xã hội hóa, về tài chính tài nguyên nước trong Luật Tài nguyên nước 2023, Luật Tài nguyên nước cũng đã quy định nhiều nội dung huy động được các nguồn lực xã hội “chung tay” bảo vệ tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng, khôi phục các dòng sông “chết,” bảo đảm công bằng trong khai thác, sử dụng nước của các ngành; nâng cao mức bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái các dòng sông và các giá trị văn hóa gắn liền với nước của nhân dân Việt Nam.
Sẵn sàng đưa Luật vào cuộc sống
Luật Tài nguyên nước 2023 với rất nhiều những thay đổi từ chính sách, luật pháp sẽ là gốc rễ cho những đổi thay về quản lý nguồn nước. Để Bộ luật sửa đổi với nhiều nội dung mới, quan trọng thực sự đi vào đời sống xã hội, được người dân tiếp nhận và thực hiện, hiện nay, Bộ TN&MT đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Kế hoạch triển khai thi hành Luật và xây dựng các văn bản dưới Luật.
Chia sẻ về quá trình chuẩn bị triển khai đưa Luật đi vào cuộc sống, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho biết, Cục đang tập trung nguồn lực xây dựng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật. Đến nay, về cơ bản Cục đã hoàn thành việc xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước 2023 và dự thảo Nghị định quy định về trình tự, thủ tục trong kê khai đăng ký, cấp phép khai thác tài nguyên nước và thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Bên cạnh việc triển khai xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Cục Quản lý tài nguyên nước cũng đã lên kế hoạch phối hợp với các địa phương để tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến sâu rộng những điểm mới, quy định mới của Luật để góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Cùng với đó, trong thời gian tới, Cục cũng sẽ xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia. Đây là nền tảng cơ bản để giúp các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách tại các địa phương có đầy đủ thông tin để ra quyết định điều hòa phân phối nguồn nước trên các lưu vực sông.
Hy vọng rằng, với Bộ luật quan trọng được ban hành, cùng những cố gắng, nỗ lực đưa Luật vào cuộc sống, thời gian tới, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước sẽ tiếp tục đáp ứng được yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, phương thức quản lý mới với nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này.
Nguồn:
https://monre.gov.vn/Pages/quan-ly-tai-nguyen-nuoc-gieo-hat-giong-doi-moi.aspx?cm=T%C3%A0i%20nguy%C3%AAn%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Năm 2023, công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước các tại địa phương đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước tiết kiệm, hiệu quả và bền vững.
49/63 địa phương phê duyệt Danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ
Theo báo cáo của Cục Quản lý tài nguyên nước, trong năm 2023, Cục đã trình cấp có thẩm quyền hoặc ký theo thẩm quyền hơn 1000 văn bản hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, ngành địa phương, doanh nghiệp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý tài nguyên nước, trách nhiệm của chủ giấy phép tài nguyên nước. Trong đó có hơn 6 văn bản đôn đốc trách nhiệm của các Bộ ngành địa phương như: lập hành lang bảo vệ nguồn nước; công bố danh nguồn nước sông nội tỉnh; công bố danh mục hồ ao không san lấp lấn chiếm; vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; nội dung quy hoạch tỉnh; báo cáo tình hình sử dụng nước; kết nối hệ thống giám sát khai thác tài nguyên nước; vận hành liên hồ chứa; đôn đốc thực hiện trách nhiệm của chủ giấy phép tài nguyên nước;…
Kết quả đã có chuyển biến rõ rệt, nhất là đã có 22/63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương đã được phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh; 05/63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương đã được phê duyệt Kế hoạch điều tra cơ bản tài nguyên nước; có 50/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phê duyệt, công bố danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp trên địa bàn tỉnh; 49/63 tỉnh, thành phố đã công bố danh mục nguồn nước cần phải lập hành lang bảo vệ; có 38/63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt danh mục nguồn nước nội tỉnh; có 26/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện phê duyệt, công bố Danh mục và Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh theo quy định; có 33/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện việc phê duyệt vùng bảo hộ vệ sinh lấy nước sinh hoạt cho các công trình thuộc đối tượng trên địa bàn tỉnh.
Cấp 1928 giấy phép tài nguyên nước
Các Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện có hiệu quả công tác cấp phép tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền. Theo báo cáo, năm 2023, 61 tỉnh, thành phố đã cấp được 1928 giấy phép tài nguyên nước các loại.
Cùng với đó, các địa phương phê duyệt gần 58 tỷ đồng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về tài nguyên nước
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tài nguyên nước được các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trong cả nước thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều hình thức như: thông qua Hội nghị giao ban, tổ chức lồng ghép phổ biến, tuyên truyền pháp luật về tài nguyên nước; tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước.... Ngoài ra, các Sở cũng tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày Nước thế giới, tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật về tài nguyên môi trường nói chung và bảo vệ tài nguyên nước nói riêng cho nhân dân qua các chuyên mục trên đài phát thanh, truyền hình, các phóng sự, bản tin thời sự…Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã từng bước nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước.
Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về tài nguyên nước
Năm 2023, các địa phương đã thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện theo kế hoạch của Bộ và hoàn thành kiểm tra thường xuyên việc chấp hành các quy định của pháp luật về tài nguyên nước trong hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, bảo vệ tài nguyên nước đối với 30 đơn vị khai thác, sử dụng nước trên địa bàn 11 tỉnh.
Việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước (54/63 địa phương nộp báo cáo). Theo số liệu thống kê, có tổng số 156 đoàn thanh tra kiểm tra đối với 751 tổ chức cá nhân, tổng số tiền phạt hơn 7,3 tỷ đồng. Cục Quản lý tài nguyên nước đã hoàn thành 2 cuộc kiểm tra đối với 2 tổ chức và đã bàn giao cho Tranh tra Bộ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đến thời điểm hiện tại, Thanh tra Bộ đã ban hành 12 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 7 tổ chức với tổng số tiền xử phạt là: 1.910 triệu đồng.
Nguồn:https://monre.gov.vn/Pages/quan-ly-tai-nguyen-nuoc-o-dia-phuong-nhieu-chuyen-bien-ro-ret.aspx?cm=T%C3%A0i%20nguy%C3%AAn%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
|