(TN&MT)- Ngày 18/12, tại Hà Nội, Cục Quản lý tài nguyên nước phối hợp với Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) tổ chức cuộc họp thẩm định Dự án “Tăng cường quản lý và tuân thủ thể chế tài nguyên nước nhằm giải quyết tình trạng suy giảm oxy hòa tan trong nước do chất dinh dưỡng và các chất ô nhiễm khác gây ra ở Vịnh Bắc Bộ”. Cuộc họp được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Theo ông Ngô Mạnh Hà, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, những năm gần đây, khu vực Đồng bằng sông Hồng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề liên quan tới tài nguyên nước, trong đó tình hình ô nhiễm nước ven biển nghiêm trọng cả về mức độ, quy mô do gia tăng lượng xả thải không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn vào nguồn nước.
Hơn nữa, việc khai thác, sử dụng nước quá mức trong khi nguồn nước suy giảm dẫn đến căng thẳng nguồn nước trong mùa cạn và xâm nhập mặn gia tăng ở vùng ven biển. Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ khiến mực nước biển dâng cao, dẫn tới ngập lụt vùng ven biển, làm đảo lộn cân bằng tự nhiên và sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng, môi trường nước.
Bên cạnh đó, hàng trăm héc-ta rừng ngập mặn có thể bị mất, các hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ, vùng ven biển bị tác động sâu sắc...
Bên cạnh đó, hàng trăm ha rừng ngập mặn có thể bị mất, các hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ, vùng ven biển bị tác động sâu sắc. Các hệ sinh thái thuỷ sinh và đa dạng sinh học vùng biển cũng thay đổi theo chiều hướng xấu đi.
Quang cảnh cuộc họp
Trước những vấn đề trên, Cục Quản lý Tài nguyên nước đã phối hợp với các bộ, ngành triển khai xây dựng Dự án “Tăng cường quản lý và tuân thủ thể chế tài nguyên nước nhằm giải quyết tình trạng suy giảm oxy hòa tan trong nước do chất dinh dưỡng và các chất ô nhiễm khác gây ra ở Vịnh Bắc Bộ”. Đây là dự án được xây dựng phù hợp với ưu tiên về bảo đảm an ninh tài nguyên nước của Việt Nam, đồng thời phù hợp với tiêu chí và ưu tiên của Quỹ Môi trường toàn cầu.
Tại cuộc họp, ông Nguyễn Song Hà - Trợ lý đại diện FAO về chương trình, Văn phòng FAO Việt Nam cho biết thêm, mục tiêu chính của dự án là nhằm giải quyết tình trạng thiếu oxy do phú dưỡng gây ra ở Vịnh Bắc Bộ thông qua việc giảm ô nhiễm giàu chất dinh dưỡng trên đất liền từ các nguồn nước thải sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, Việt Nam.
Ông Nguyễn Song Hà - Trợ lý đại diện FAO về chương trình, Văn phòng FAO Việt Nam phát biểu
Theo ông Nguyễn Song Hà, cuộc họp tham vấn này sẽ giúp nhóm xây dựng văn kiện dự án tiếp nhận ý kiến các chuyên gia và các Bộ ban ngành có liên quan, cũng như đi đến thống nhất về các nội dung liên quan đến dự thảo văn kiện dự án, để đảm bảo dự án đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như tính thực tiễn khi đi vào giai đoạn triển khai tại Việt Nam. Sau đó văn kiện dự án sẽ được nộp cho Tổ chức FAO thẩm định vào cuối tháng này và đệ trình cho Quỹ GEF vào tháng 2 năm sau. Dự kiến, Văn kiện dự án sẽ được Quỹ thông qua trong quý 3 năm 2025 và triển khai trong vòng 4 năm từ năm 2026.
Báo cáo về tiến độ thực hiện dự án, bà Nguyễn Thúy Anh, đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, từ tháng 4/2024 đến nay, Nhóm tư vấn quốc gia đã tiến hành các cuộc tham vấn với các chuyên gia Việt Nam và quốc tế, các bên liên quan ở cấp quốc gia và địa phương, bao gồm cộng đồng người dân trên địa bàn các tỉnh, thành phố với mục tiêu, nhằm thu thập các thông tin, dữ liệu hỗ trợ quá trình xây dựng văn kiện dự án và quá trình triển khai dự án ở giai đoạn sau.
Bà Nguyễn Thúy Anh, đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước phát biểu
Theo bà Nguyễn Thuý Anh, làm việc tại các địa phương, bên cạnh việc giới thiệu về Văn kiện Dự án, Đoàn công tác của FAO và Cục Quản lý tài nguyên nước đã trao đổi với đại diện lãnh đạo các sở, ngành, các địa phương, đơn vị liên quan trên địa bàn về thực trạng và vấn đề về ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn địa phương, những nguyên nhân chính; tác động và thiệt hại do ô nhiễm nước đối với kinh tế, xã hội, môi trường trên địa bàn tỉnh và thành phố; công tác bảo vệ môi trường nước và quản lý nước thải (sinh hoạt, công nghiệp, làng nghề, nông nghiệp, thủy sản,…) các dự án đã, đang và sẽ triển khai liên quan đến công tác bảo vệ môi trường nước, bảo tồn đa dạng sinh học tại địa phương; các mô hình tốt, bao gồm cả tự phát được hình thành từ các dự án hỗ trợ, đang được triển khai ở địa phương.
Cùng với đó, các bên cũng chia sẻ, trao đổi các đề xuất cụ thể về các công cụ khoa học, công nghệ, thể chế, kinh tế, tài chính, nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm nước như: các giải pháp xử lý nước dựa vào tự nhiên; khôi phục và duy trì các hệ sinh thái đóng vai trò bộ lọc tự nhiên; kiểm soát các nguồn thải diện (chảy tràn) từ các hoạt động nông nghiệp, thủy sản; thúc đẩy các chính sách về kinh tế sinh học, kinh tế tuần hoàn; các cơ chế khuyến khích trong thu gom, xử lý nước thải, tái sử dụng nước thải, sản xuất xanh, giảm phát thải; các cơ chế phối hợp liên ngành trong kiểm soát ô nhiễm nước, quản lý tài nguyên nước; các biện pháp cải thiện sự tham gia sâu, rộng của khối tư nhân và cộng đồng địa phương trong bảo vệ môi trường nước và đa dạng sinh học;…
Để đảm bảo dự án đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như tính thực tiễn khi đi vào giai đoạn triển khai tại Việt Nam, bà Nguyễn Thuý Anh cũng đề nghị các đại biểu tham dự thẳng thắn cho ý kiến vào nội dung của Văn kiện dự án để Cục Quản lý tài nguyên nước hoàn thiện đưa dự án vào triển khai tại thực tiễn đáp ứng những mục tiêu mà Dự án đề ra góp phần quản lý bền vững tài nguyên nước tại Việt Nam.
Tại cuộc họp, các đại biểu tham dự đã được nghe bài trình bày giới thiệu Quỹ môi trường toàn cầu và Chương trình tích hợp “Đại dương sạch và khỏe mạnh” của ông Lorenzo Paolo Galbiati – đại diện Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO); ông Đinh Tiến Dũng (Trưởng nhóm tư vấn quốc gia) đã trình bày về hiện trạng ô nhiễm nước vùng đồng bằng sông Hồng và kết quả tham vấn các bên liên quan.
Ông Lorenzo Paolo Galbiati – đại diện Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) phát biểu
Bên cạnh đó, tại cuộc họp các chuyên gia cũng đóng góp ý kiến và thống nhất về các nội dung liên quan tới Dự thảo Văn kiện Dự án nhằm đáp ứng những mục tiêu mà Dự án đề ra.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
Thứ năm, 12 Tháng 12 2024

Ảnh minh họa
Hội nghị lần thứ 16 các bên tham gia Công ước Liên hợp quốc về Chống Sa mạc hóa (COP16) diễn ra từ ngày 2 đến 10/12 tại Riyadh, Ả Rập Xê-út. Tại Hội nghị lần này, hơn 12 tỷ đô-la Mỹ đã được cam kết nhằm tăng cường khả năng chống chịu hạn hán, phục hồi đất và chống suy thoái đất. Số liệu này vừa được công bố trước thềm Ngày Đất Thế giới (05/12).
Hội nghị lần thứ 16 các bên tham gia Công ước Liên hợp quốc về Chống Sa mạc hóa (COP16) diễn ra từ ngày 2 đến 10/12 tại Riyadh, Ả Rập Xê-út. Tại Hội nghị lần này, hơn 12 tỷ đô-la Mỹ đã được cam kết nhằm tăng cường khả năng chống chịu hạn hán, phục hồi đất và chống suy thoái đất. Số liệu này vừa được công bố trước thềm Ngày Đất Thế giới (05/12).
Theo thông cáo báo chí công bố tại Hội nghị, Nhóm Điều phối Arab đã đóng góp 10 tỷ USD trong tổng số cam kết nói trên để giải quyết tình trạng sa mạc hóa, suy thoái đất và hạn hán. Quỹ Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), còn gọi là Quỹ OPEC, cam kết 1 tỷ USD và Ngân hàng Phát triển Hồi giáo đóng góp 1 tỷ USD, trong khi Saudi Arabia cam kết 150 triệu USD cho khả năng phục hồi sau hạn hán, phục hồi đất và chống suy thoái đất. Các cam kết được đưa ra tại Đối thoại Bộ trưởng về Tài chính, một chương trình quan trọng của COP16 tập trung vào việc mở khóa tài chính của khu vực công và tư nhân.

Liên Hiệp Quốc ước tính thế giới cần đầu tư đến 355 tỷ đô-la mỗi năm trong giai đoạn 2025-2030 để đáp ứng các mục tiêu phục hồi đất, nhưng chỉ có 77 tỷ đô-la dự kiến được cung cấp. Theo Liên Hiệp Quốc, sa mạc hóa, suy thoái đất và hạn hán là những thách thức môi trường cấp bách nhất hiện nay. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, mỗi giây, diện tích đất bị suy thoái tương đương với 4 sân bóng đá và mỗi năm, diện tích đất bị suy thoái lên tới 100 triệu hec-ta. Có tới 40% diện tích đất trên thế giới đã bị suy thoái, ảnh hưởng đến 3,2 tỷ người trên toàn cầu./.
Nguồn: DWRM (T/h)
|
(TN&MT) - Với một tầm nhìn mới phát triển bền vững, tỉnh Quảng Nam đang có định hướng “hồi sinh” những dòng sông một cách hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tạo an cư lạc nghiệp cho người dân và bảo vệ đa dạng sinh học.
Động lực để phát triển
Tỉnh Quảng Nam có 3 sông lớn là sông Vu Gia, sông Thu Bồn và sông Tam Kỳ. Ngoài ra, phần hạ lưu sông Thu Bồn và sông Tam Kỳ được nối với nhau bởi sông Trường Giang. Sông Trường Giang có chiều dài khoảng 60km, chạy dọc bờ biển nối liền 2 hệ thống sông Thu Bồn và Tam Kỳ. Đầu phía Bắc sông Trường Giang hợp lưu với sông Thu Bồn đổ ra biển tại cửa Đại (Hội An), đầu phía Nam nhập lưu với sông Tam Kỳ đổ ra biển qua cửa Lở và cửa An Hòa (Núi Thành).
Từ xưa đến nay, các dòng sông ở xứ Quảng chính là nơi giao lưu, tiếp biến văn hóa, là tuyến đường thủy quan trọng kết nối giữa các vùng, miền trong và ngoài tỉnh. Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Trường Giang cùng các chi lưu của nó đã tạo nên những cánh đồng phù sa màu mỡ, đem lại những vựa lúa, biền dâu tươi tốt, xóm làng theo đó cũng ngày thêm đông đúc, trù phú.
Các dòng sông ở Quảng Nam có vai trò quan trọng, là động lực phát triển kinh tế của địa phương
Chạy suốt chiều dài các dòng sông là những làng nghề nổi tiếng không chỉ góp phần vào sự thịnh vượng về kinh tế mà còn đắp bồi nên những giá trị văn hóa đặc sắc của xứ Quảng, và cho đến hôm nay nó vẫn là tài nguyên quý giá cho ngành du lịch dịch vụ phát triển bền vững.
Hiện nay, trên lưu vực hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn có nhiều thủy điện bậc thang, với năng lực phát điện gần 1.200 kw mỗi năm, đồng thời góp phần điều tiết nước cho vùng hạ du, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất chủ yếu cho hàng vạn người dân khu vực Quảng Nam, Đà Nẵng.
Xác định lợi thế địa kinh tế - văn hóa - chính trị để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Quảng Nam đã quy hoạch các dòng sông theo mô hình cấu trúc không gian “2 vùng - 2 cụm động lực - 3 hành lang phát triển” được định hướng trong Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trên tinh thần nội dung quy định của Luật, Bộ TN&MT có trách nhiệm thực hiện việc lập Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đối với Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia đã hoàn thành, hiện nay tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đang phối hợp với Bộ TN&MT thực hiện Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, dự kiến hoàn thành trong năm 2025.
Phát triển hài hòa giữa kinh tế, môi trường
Theo ông Hồ Quang Bửu - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, các dòng sông lớn trên địa bàn tỉnh như Vu Gia, Thu Bồn, Trường Giang, Cổ Cò, Tam Kỳ… có liên hệ hữu cơ, mật thiết về đa dạng sinh học với nhau. Tuy nhiên, thời gian qua, việc quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị đa dạng sinh học tại các con sông này chưa được chú trọng, đồng thời chưa có cơ chế, chính sách phù hợp trong công tác bảo vệ đa dạng sinh học.
Địa phương sẽ tiến hành đánh giá tất cả các mặt về kinh tế, tài nguyên, văn hóa, môi trường, tự nhiên, sẽ định hướng phát triển theo hướng hài hòa lợi ích trước mắt và bảo tồn lâu dài. Trong đó sẽ lưu ý vấn đề xác lập từng khu vực nào cần phải bảo tồn nghiêm ngặt, khu vực nào được khai thác, sử dụng và khai thác đến mức nào, chủ thể tham gia khai thác...
Với một tầm nhìn mới phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, theo định hướng chung của tỉnh Quảng Nam, trong thời gian đến, địa phương xem xét rà soát, tổ chức lại các hoạt động kinh tế - xã hội ở lưu vực các con sông này, nhằm có giải pháp để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, sinh thái, đa dạng động thực vật ở các vùng cửa sông, cửa biển.
Đặc biệt, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hoạt động khai thác, đánh bắt, hủy hoại môi trường... có nguy cơ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học tại các con sông này.
Sau sông Cổ Cò, tỉnh Quảng Nam tiếp tục triển khai khơi thông dòng Trường Giang. Đây từng là tuyến đường thủy quan trọng chạy dọc ven biển của tỉnh Quảng Nam, nhưng trải qua bao biến thiên, dòng sông này đã bị bồi lấp, gây ngập úng cho một số vùng đô thị. Theo Dự án Phát triển tích hợp thích ứng tỉnh Quảng Nam sẽ thực hiện nạo vét sông Trường Giang với tổng chiều dài tuyến luồng khoảng 60 km, từ ngã ba An Lạc (Cửa Đại) đến Cửa Lở (vịnh An Hòa).
Ngoài ra, Dự án sẽ xây dựng mới 6 cầu vượt sông Trường Giang, gồm cầu Bình Dương, Hưng Mỹ, Bình Nam, Tỉnh Thủy, Tam Thanh (Quốc lộ 40B) và cầu Tam Tiến. Đồng thời, xây dựng kè bảo vệ tại các điểm xung yếu thường xảy ra xói lở; xây dựng tổ hợp công trình kênh, cống, đập hỗ trợ thoát lũ khu vực Tam Kỳ…
Định hướng sông Trường Giang sẽ được quy hoạch tổng thể một cách khoa học, đảm bảo hạ tầng đồng bộ và tạo sức lan tỏa lớn. Về tương lai lâu dài, sông Trường Giang sẽ trở thành trục xương sống để phát triển khu vực, mở ra nhiều cơ hội phát triển. Tỉnh đưa ra nhiều hình thức chuyển đổi nghề, tạo điều kiện chuyển đổi nghề của người dân để tham gia phục vụ sự phát triển chung.
“Việc khơi thông sông Cổ Cò và sông Trường Giang là cơ hội phát triển các ngành kinh tế dịch vụ có tiềm năng phát triển ven sông và phát huy hết chức năng cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp, giao thông...
Sông Trường Giang sẽ là con sông đa dạng hệ sinh thái bậc nhất trong số các con sông của tỉnh, mỗi lưu vực sẽ phục hồi hệ thực vật riêng và phân khu phát triển kinh tế, du lịch cũng khác nhau, duy trì sự sống của hệ sinh thái thủy sinh, đảm bảo sự bảo tồn và phát triển đa dạnh sinh học lưu vực sông.”- ông Hồ Quang Bửu cho biết thêm.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Theo một báo cáo đột phá mới, nhân loại đã làm mất cân bằng vòng tuần hoàn nước toàn cầu “lần đầu tiên trong lịch sử loài người”, gây ra thảm họa nước ngày càng nghiêm trọng, tàn phá nền kinh tế, sản xuất lương thực và cuộc sống.
Theo báo cáo vừa được công bố bởi Ủy ban Toàn cầu Kinh tế học về Nước và một nhóm các nhà lãnh đạo cùng chuyên gia quốc tế, nhiều thập kỷ sử dụng đất một cách tàn phá và quản lý nước kém kết hợp với cuộc khủng hoảng khí hậu do con người gây ra đã khiến hệ thống nước toàn cầu gặp phải “áp lực chưa từng có”.
Vòng tuần hoàn nước là một hệ thống phức tạp mà nước di chuyển xung quanh Trái đất. Nước bốc hơi từ mặt đất - bao gồm từ hồ, sông và thực vật - và bốc lên khí quyển, tạo thành những dòng hơi nước lớn có thể di chuyển xa, trước khi nguội đi, ngưng tụ và cuối cùng rơi trở lại mặt đất dưới dạng mưa hoặc tuyết.
Mực nước thấp ở Hồ Yliki ở Boeotia, miền Trung Hy Lạp"
Sự gián đoạn trong quy trình tuần hoàn nước có thể gây nguy hại cho cuộc sống con người, khi gần 3 tỷ người phải đối mặt với tình trạng thiếu nước, mùa màng đang héo úa và các thành phố đang chìm xuống khi nước ngầm bên dưới chúng khô cạn.
Hậu quả sẽ còn thảm khốc hơn nữa nếu không có hành động khẩn cấp. Báo cáo cho biết cuộc khủng hoảng nước đe dọa hơn 50% sản lượng lương thực toàn cầu và có nguy cơ làm giảm trung bình 8% GDP của các quốc gia vào năm 2050, với mức thiệt hại cao hơn nhiều, lên tới 15% ở các nước thu nhập thấp.
Ông Johan Rockström, đồng chủ tịch Ủy ban Kinh tế Nước Toàn cầu, tác giả của báo cáo cho biết: "Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta đang đẩy chu trình nước toàn cầu ra khỏi trạng thái cân bằng. Chúng ta không còn có thể dựa vào lượng mưa là nguồn cung cấp nước ngọt nữa.
Đồ họa cho thấy sự chuyển động của "nước xanh lá cây" và "nước xanh lam" trong chu trình nước toàn cầu. Nguồn: Ủy ban toàn cầu về kinh tế nước
Báo cáo phân biệt giữa “nước xanh dương”, nước lỏng trong hồ, sông và tầng ngậm nước, và “nước xanh lục”, nước được lưu trữ trong đất và thực vật.
Mặc dù nguồn cung cấp nước xanh lục từ lâu đã bị bỏ qua, nhưng báo cáo cho biết nó cũng quan trọng không kém đối với chu trình nước vì nước sẽ quay trở lại khí quyển khi thực vật giải phóng hơi nước, tạo ra khoảng một nửa lượng mưa trên đất liền.
Báo cáo cho thấy sự gián đoạn trong quy trình tuần hòa nước “có mối liên hệ sâu sắc” với biến đổi khí hậu.
Nguồn cung cấp nước xanh lá cây ổn định là rất quan trọng để hỗ trợ thảm thực vật có thể lưu trữ carbon làm nóng hành tinh. Nhưng thiệt hại do con người gây ra, bao gồm phá hủy đất ngập nước và chặt phá rừng, đang làm cạn kiệt các bồn chứa carbon này và đẩy nhanh quá trình nóng lên toàn cầu. Đổi lại, sức nóng gia tăng do biến đổi khí hậu đang làm khô cảnh quan, giảm độ ẩm và tăng nguy cơ cháy rừng.
Cuộc khủng hoảng trở nên cấp bách hơn do nhu cầu nước rất lớn. Báo cáo tính toán rằng, trung bình, mọi người cần tối thiểu khoảng 4.000 lít một ngày để có một "cuộc sống ổn định", cao hơn nhiều so với mức 50 đến 100 lít mà Liên Hợp Quốc cho là cần thiết cho các nhu cầu cơ bản, và nhiều hơn mức mà hầu hết các khu vực có thể cung cấp từ các nguồn địa phương.
Một chiếc thuyền đang neo đậu trên dòng sông Rio Negro cạn khô (thành phố Manaus, Brazil). Đây là mức nước thấp kỷ lục, chưa từng xảy ra từ năm 1950.
Ông Richard Allan, Giáo sư khoa học khí hậu tại Đại học Reading, Anh, người không tham gia vào báo cáo cho biết báo cáo này vẽ nên bức tranh ảm đạm về sự gián đoạn do con người gây ra đối với vòng tuần hoàn nước toàn cầu, nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất giúp duy trì sinh kế của con người.
"Các hoạt động của con người "đang làm thay đổi kết cấu đất đai và không khí phía trên, làm khí hậu nóng lên, tăng cường cả hiện tượng cực đoan ẩm ướt và khô hạn, đồng thời làm thay đổi các kiểu gió và lượng mưa", ông Allan cho biết thêm.
Ông nói với CNN rằng cuộc khủng hoảng này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và cắt giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm làm nóng hành tinh.
Các tác giả của báo cáo cho biết các chính phủ trên thế giới phải công nhận vòng tuần hoàn nước là “lợi ích chung” và cùng nhau giải quyết vấn đề. Các quốc gia phụ thuộc vào nhau, không chỉ thông qua các hồ và sông trải dài qua biên giới, mà còn vì nước trong khí quyển. Điều này nghĩa là các quyết định được đưa ra ở một quốc gia có thể làm gián đoạn lượng mưa ở quốc gia khác.
Người nông dân loại bỏ những cây hạnh nhân chết vì thiếu nước tưới ở Huron, California, Mỹ
Các tác giả của báo cáo kêu gọi "điều chỉnh cơ bản vị trí của nước trong nền kinh tế", bao gồm cả việc định giá tốt hơn để ngăn chặn lãng phí và xu hướng trồng các loại cây trồng và cơ sở vật chất cần nhiều nước, chẳng hạn như trung tâm dữ liệu ở những khu vực thiếu nước.
"Cuộc khủng hoảng nước toàn cầu là một thảm kịch nhưng cũng là cơ hội để chuyển đổi nền kinh tế của nước", bà Ngozi Okonjo-Iweala, Tổng Giám đốc của Tổ chức Thương mại Thế giới, đồng chủ tịch ủy ban công bố báo cáo cho biết. Bà nói thêm rằng việc đánh giá đúng giá trị của nước là điều cần thiết, để nhận ra sự khan hiếm của nước và nhiều lợi ích mà nó mang lại.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Ngày 26/11, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân đã ký ban hành Thông tư số 22/2024/TT-BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về trám lấp giếng không sử dụng. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/5/2025.
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về trám lấp giếng không sử dụng quy định quy trình kỹ thuật về trám lấp giếng bị hỏng, không còn sử dụng hoặc không có kế hoạch tiếp tục sử dụng quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật Tài nguyên nước, gồm: Giếng khoan, giếng đào để điều tra, đánh giá, thăm dò, khai thác nước dưới đất; Giếng khoan khảo sát địa chất công trình, xử lý nền móng công trình xây dựng, xây dựng công trình ngầm; Giếng khoan thăm dò địa chất, thăm dò, khai thác khoáng sản. Riêng Giếng khoan thăm dò, khai thác dầu khí không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chuẩn này.
Quy chuẩn này áp dụng đối với cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có liên quan đến việc trám lấp giếng không sử dụng quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật Tài nguyên nước.
Theo Quy chuẩn được ban hành, về yêu cầu chung, trước khi thực hiện việc trám lấp giếng không sử dụng, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân cần nghiên cứu hồ sơ thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công giếng (nếu có) và điều kiện thực tế của giếng; lựa chọn máy móc, trang thiết bị, dụng cụ, vật tư, vật liệu, nhân lực, phương án thi công trám lấp giếng phù hợp để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác trám lấp giếng.
Bộ TN&MT ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về trám lấp giếng không sử dụng
Đồng thời, việc trám lấp giếng phải bảo đảm thực hiện kịp thời, ngăn chặn nước, chất bẩn từ trên mặt đất xâm nhập vào các tầng chứa nước và ngăn chặn sự lưu thông giữa các tầng, lớp chứa nước khác nhau qua giếng; và tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất.
Trong đó, Quy trình trám lấp giếng không sử dụng đối với giếng khoan, giếng đào để điều tra, đánh giá, thăm dò, khai thác nước dưới đất và giếng khoan thăm dò địa chất, thăm dò, khai thác khoáng sản y được thực hiện theo 6 bước, thứ tự gồm: Thông báo về việc trám lấp giếng; Kiểm tra, đánh giá tình trạng giếng; Vệ sinh giếng; Chuẩn bị vật liệu, dụng cụ, máy móc, thiết bị và nhân lực trám lấp giếng; Thi công trám lấp giếng và Báo cáo kết quả thi công trám lấp giếng.
Cũng theo Thông tư, Quy trình trám lấp giếng không sử dụng đối với giếng khoan khảo sát địa chất công trình, xử lý nền móng công trình xây dựng, xây dựng công trình ngầm được thực hiện theo TCVN 9437:2012 Khoan thăm dò địa chất công trình.
Bên cạnh việc quy định quy trình lấp giếng không sử dụng, Quy chuẩn cũng quy định cụ thể về quy trình kỹ thuật và yêu cầu quản lý phải tuân thủ trong công tác trám lấp giếng không sử dụng; trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; và tổ chức thực hiện. Trong đó, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước có trách nhiệm tổ chức phổ biến, kiểm tra việc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia này.
Định kỳ, trước ngày 15 tháng 12 hằng năm, Ủy ban nhân dân cấp xã tổng hợp danh mục các giếng đã trám lấp trên địa bàn, gửi báo cáo Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện để tổng hợp.
Định kỳ, trước ngày 20 tháng 12 hằng năm, Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện tổng hợp danh mục các giếng đã trám lấp trên địa bàn, gửi báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường.
Định kỳ, trước ngày 25 tháng 12 hằng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường (qua Cục Quản lý tài nguyên nước) và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về thực hiện việc trám lấp giếng không sử dụng trên địa bàn.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
|