Thứ bảy, 11 Tháng 10 2025
|
Mưa lớn đầu tháng 10 lại khiến Hà Nội chìm trong biển nước, lộ ra những bất cập trong quy hoạch, phát triển hạ tầng, tích hợp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Oằn mình trong trận lũ lịch sử
Thái Nguyên thiệt hại nặng về sản xuất, chăn nuôi do mưa lũ
Bắc Ninh hỗ trợ khẩn cấp 20 tỷ đồng cho nhân dân vùng lũ
Bắc Ninh chủ động kiểm soát các điểm đê xung yếu
Hà Nội “ngộp thở” trong biển nước sau hai đợt mưa bão
Khoảng 9h sáng nay (11/10), mưa rào diện rộng đổ xuống Hà Nội, kéo dài gần một giờ khiến nhiều tuyến phố bị ngập sâu từ 10 đến 30 cm. Lực lượng chức năng ghi nhận hơn 10 điểm ngập trên toàn thành phố.
Mưa lớn kéo dài nhiều giờ diễn ra sáng sáng 7/10 khiến toàn thành phố Hà Nội 'ngộp thở' trong biển nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trận mưa này không kéo dài nhưng tiếp tục gây ngập. Trước đó, Hà Nội đã liên tiếp hứng chịu hai trận mưa bão lịch sử khiến toàn thành phố “ngộp thở” trong biển nước. Cuối tháng 9, hoàn lưu bão Bualoi đã trút lượng mưa từ 120 đến hơn 600 mm, gây ra 116 điểm ngập với mực nước từ 30 cm đến 1,5 m. Nhiều khu dân cư chìm trong nước suốt nhiều ngày.
Chưa kịp khắc phục hậu quả, đêm 6 và sáng 7/10, hoàn lưu bão số 11 (Matmo) tiếp tục đổ xuống lượng mưa cực lớn, có nơi lên tới 261 mm chỉ trong vài giờ khiến 122 điểm ngập mới xuất hiện. Trong đó, 29 điểm ngập nặng, giao thông tê liệt, hàng nghìn phương tiện chết máy, người dân phải dắt xe lội nước hoặc quay đầu tìm đường khác. Đến sáng 8/10, dù trời đã tạnh, vẫn còn 13 điểm ngập úng, có nơi nước sâu nửa mét.
Thống kê của ngành xây dựng cho thấy, giai đoạn 2012-2022, Hà Nội ghi nhận hơn 200 điểm ngập tại 16 quận, huyện, và con số này vẫn tiếp tục tăng. Rõ ràng, ngập úng không còn là hiện tượng bất thường mà đã trở thành “bệnh mãn tính” của đô thị. Đây là hệ quả của hạ tầng quá tải và biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.
Khi nước mưa không còn lối thoát
Theo GS.TS Nguyễn Việt Anh - Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, hệ thống thoát nước Hà Nội hiện đã “lỗi thời” so với tốc độ đô thị hóa. Hệ thống này chỉ được thiết kế cho lượng mưa khoảng 310 mm trong hai ngày, trong khi các trận mưa gần đây thường vượt xa ngưỡng đó. “Khi toàn bộ nước đổ dồn vào cống nhỏ, ngập là điều không tránh khỏi”, GS Việt Anh nói.
Người dân gia cố bờ bao nhằm hạn chế nước ngập xâm nhập vào tầng hầm khu dân cư. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Cùng quan điểm, TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm - nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch và Kiến trúc Hà Nội cho rằng, thành phố đã mất khoảng hai phần ba diện tích mặt nước tự nhiên. Nhiều hồ, ao, mương, ruộng, vốn là “túi chứa nước” và “phổi xanh” đã bị san lấp để nhường chỗ cho đô thị mới. “Khi không còn không gian chứa và điều tiết nước, ngập úng chỉ còn là vấn đề thời gian”, TS Nghiêm phân tích.
Bổ sung thêm, ông Lê Văn Du - Trưởng phòng Quản lý Hạ tầng cấp, thoát nước (Sở Xây dựng Hà Nội) cho biết, nhiều dự án hồ điều hòa, trạm bơm, kênh tiêu vẫn chậm tiến độ hoặc chưa vận hành hiệu quả. Việc chưa tách riêng hệ thống nước mưa và nước thải khiến cống quá tải, vừa gây ngập úng, vừa làm ô nhiễm sông hồ nội đô.
Dưới áp lực khí hậu, ngập lụt đô thị sẽ còn trầm trọng hơn
Các chuyên gia môi trường cảnh báo, biến đổi khí hậu đang khiến mưa cực đoan gia tăng cả về tần suất lẫn cường độ, làm trầm trọng thêm những yếu kém sẵn có của hạ tầng đô thị. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, lượng mưa lớn trên 100 mm/giờ đã tăng nhanh trong 30 năm qua; giai đoạn 1990-2020, số ngày mưa cực đoan ở miền Bắc tăng gần 20%, trong khi lượng mưa trung bình năm tăng 10-15%.
Điều này đồng nghĩa với việc Hà Nội và nhiều đô thị khác sẽ phải đối mặt với những trận mưa lớn hơn, ngập sâu hơn và kéo dài hơn trong những năm tới, đặc biệt khi hệ thống thoát nước chưa được thiết kế phù hợp với các kịch bản khí hậu mới.
Sau nhiều ngày mưa lớn gây ngập lụt, trời đã hửng nắng trở lại, song ở nhiều khu vực trũng, nước vẫn chưa rút hết, tình trạng ngập vẫn tiếp diễn. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Nếu như trước đây ngập chỉ xảy ra ở vùng trũng, thì nay, tình trạng này đã lan sang các khu đô thị mới. GS.TS Nguyễn Việt Anh lý giải: “Các khu đô thị mới bị bê tông hóa gần như hoàn toàn, khiến nước mưa không còn chỗ thấm, dồn nhanh về vùng thấp tạo thành ‘rốn lũ’ giữa lòng thành phố”.
Thực tế, theo kịch bản biến đổi khí hậu quốc gia, đến năm 2050, lượng mưa cực đoan tại đồng bằng sông Hồng có thể tăng thêm 15-20%, trong khi nhiệt độ trung bình tăng khoảng 1,9°C. Nhiệt độ cao hơn đồng nghĩa lượng hơi nước trong khí quyển nhiều hơn, kéo theo những cơn mưa dồn dập vượt quá khả năng tiêu thoát của hạ tầng hiện nay.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
|
Từ khi có hệ thống cấp nước sạch, người dân nông thôn yên tâm sử dụng, sức khỏe cải thiện, môi trường sống được bảo vệ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nguồn nước sạch tiếp sức vùng lũ Điện Biên
Đưa nước sạch về vùng nông thôn, miền núi, đồng bào quý như vàng
Những ngày đầu thu, về xã Mường Phăng, tỉnh Điện Biên, chúng tôi bắt gặp hình ảnh bà con phấn khởi mở vòi nước sạch ngay trong sân nhà. Họ không còn phải gánh nước từ suối xa, cũng không còn lo lắng mỗi mùa mưa lũ, nguồn nước sinh hoạt đục ngầu, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh tật.
Chỉ tay về chiếc vòi nước đang chảy róc rách, bà Lò Thị Nang, bản Công, vui vẻ nói: Mấy chục năm qua, gia đình tôi dùng nước suối. Mùa khô thì cạn, mùa mưa thì đục, trẻ con thường xuyên đau bụng. Giờ có nước sạch dẫn về tận nhà, cuộc sống thay đổi hẳn, sức khỏe cũng tốt hơn nhiều.
Từ khi có nước sạch về đến tận nhà, người dân không còn vất vả đi lấy nước ở suối về sinh hoạt trong gia đình. Ảnh: Hoàng Châu.
Không riêng gì gia đình bà Nang, hàng trăm hộ dân trong xã cũng hưởng lợi từ công trình nước sạch được đưa vào sử dụng năm 2021. Họ có thể yên tâm dùng nước cho ăn uống, nấu nướng, chăn nuôi mà không còn nỗi lo nguồn nước ô nhiễm.
Ở nhiều vùng nông thôn, trước đây người dân quen với việc sử dụng nước giếng, nước mưa hoặc suối mà không qua xử lý. Thói quen này tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh đường ruột, giun sán, bệnh ngoài da. Khi có nước sạch, người dân từng bước thay đổi, biết đun sôi trước khi uống, sử dụng nước tiết kiệm và vệ sinh hơn.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Thủy, Trạm Y tế xã Mường Phăng, cho biết: Trước đây, xã thường xuyên ghi nhận các ca bệnh liên quan đến nguồn nước như tiêu chảy, viêm da, giun sán. Từ khi hệ thống nước sạch đi vào hoạt động, số ca bệnh giảm rõ rệt. Đây là minh chứng rõ nhất cho vai trò thiết yếu của nước sạch với sức khỏe cộng đồng.
Người dân đang sử dụng nguồn nước sạch kéo từ đầu nguồn về đến thôn bản. Ảnh: Hoàng Châu.
Không chỉ cải thiện sinh hoạt, nước sạch còn hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Gia đình anh Quàng Văn Thanh, bản Kéo, cho biết: Có nước sạch, tôi dùng để vệ sinh chuồng trại, rửa dụng cụ, chăm sóc đàn lợn và gà. Trước kia, nguồn nước ao hồ bẩn nên vật nuôi dễ bệnh, giờ sạch sẽ hơn, hiệu quả chăn nuôi cũng cao hơn.
Ông Trần Văn Tuấn, Chủ tịch UBND xã Mường Phăng, chia sẻ: Xã còn nhiều điểm dân cư phân tán, việc kéo đường ống gặp khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi xác định nước sạch là ưu tiên hàng đầu, bởi có nước sạch thì đời sống người dân mới ổn định và phát triển bền vững.
Nước sạch về thôn bản giúp nâng cao đời sống, cải thiện sức khỏe người dân. Ảnh: Hoàng Châu.
Để bảo đảm nước sạch cho nông thôn, cần sự chung tay từ Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Nhà nước tiếp tục đầu tư nâng cấp công trình cấp nước; doanh nghiệp tham gia xã hội hóa dịch vụ; người dân nâng cao ý thức bảo vệ nguồn nước, sử dụng tiết kiệm, vệ sinh.
Nước sạch không chỉ giúp người dân nông thôn cải thiện sức khỏe mà còn góp phần thay đổi diện mạo nông thôn mới, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường. Đây chính là nền tảng để xây dựng một nền nông nghiệp xanh, một môi trường sống bền vững cho các thế hệ mai sau.
Nguồn:baonongnghiepvamoitruong.vn
|
|
Các quy định chặt chẽ về phân vùng chức năng nguồn nước, xác định dòng chảy tối thiểu và bảo vệ nước ngầm sẽ tác động đa chiều và sâu sắc đến ngành thủy sản.
Văn bản 41/VBHN-BNNMT hợp nhất Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước mà Bộ NN-MT vừa ban hành có nhiều quy định liên quan đến ngành thủy sản, một ngành kinh tế mũi nhọn sử dụng và tác động nhiều đến tài nguyên nước. Ngành thủy sản sẽ phải đầu tư, chuyển đổi và thích ứng với những quy định về tài chính, kỹ thuật mới song về lâu dài, ngành thủy sản sẽ hướng đến mô hình phát triển bền vững, nâng cao vị thế, củng cố thương hiệu trên trường quốc tế.
Thông tư đưa ra nhiều quy định quan trọng về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, bảo hộ vệ sinh nguồn nước sinh hoạt và kế hoạch bảo vệ nước ngầm. Ảnh: Minh Hoàng.
Phân vùng chức năng nguồn nước: Cơ sở cho quản lý hiệu quả
Điểm nổi bật nhất của Thông tư là quy định phân vùng chức năng nguồn nước mặt. Theo đó, từng khu vực nguồn nước được xác định rõ mục đích sử dụng: sinh hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, du lịch hay bảo tồn. Đây là một thay đổi mang tính nền tảng, bởi trước đây, việc khai thác nguồn nước diễn ra rời rạc, nhiều địa phương để tình trạng phát triển tự phát, dẫn đến ô nhiễm và xung đột giữa các ngành.
Đối với ngành nuôi trồng thủy sản – lĩnh vực phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và nguồn cung nước, quy định phân vùng chức năng nguồn nước mở ra hướng phát triển theo chiều sâu, thay vì mở rộng diện tích một cách ồ ạt như trước.
Trước hết, việc xác định rõ ràng vùng nuôi trong quy hoạch tạo cơ sở pháp lý ổn định, giúp người dân và doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn, áp dụng công nghệ tiên tiến mà không lo rủi ro từ việc thay đổi mục đích sử dụng nước đột ngột.
Bên cạnh đó, tại những khu vực ưu tiên cho sinh hoạt hoặc bảo tồn, hoạt động nuôi trồng buộc phải điều chỉnh hoặc thu hẹp, qua đó loại bỏ dần các vùng nuôi kém hiệu quả, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nhờ vậy, nguồn nước được bảo vệ tốt hơn, đồng thời ngành thủy sản cũng có điều kiện tái cấu trúc, hướng tới mô hình sản xuất bền vững và an toàn.
Việc quy hoạch vùng nuôi chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Song song với đó, các quy định về duy trì dòng chảy tối thiểu và kiểm soát khai thác nước ngầm góp phần bảo đảm chất lượng nước ổn định, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh trong ao nuôi, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Ảnh: Minh Khang.
Việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Ảnh: Minh Khang.
Ở tầm vĩ mô, những quy định mới còn đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng lợi ích giữa các ngành sử dụng nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn ngày càng gay gắt, việc phân bổ công bằng, minh bạch nguồn nước dựa trên cơ sở pháp luật sẽ giúp hạn chế xung đột, củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp. Qua đó, ngành thủy sản không chỉ được đảm bảo nguồn lực phát triển, mà còn trở thành một mắt xích quan trọng trong chiến lược quản lý và khai thác bền vững tài nguyên nước quốc gia.
Bảo vệ hạ lưu từ quy định duy trì dòng chảy tối thiểu
Một nội dung quan trọng khác là việc xác định dòng chảy tối thiểu trên các sông, suối. Đây là mức dòng chảy cần thiết để duy trì hệ sinh thái thủy sinh, cân bằng môi trường, đồng thời đảm bảo nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt ở hạ lưu.
Thực tế, nhiều con sông ở miền Trung và Tây Nguyên từng cạn kiệt do khai thác quá mức ở thượng nguồn, khiến vùng hạ lưu thiếu nước tưới, nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với quy định mới, các dự án thủy điện, hồ chứa, khai thác công nghiệp bắt buộc phải duy trì dòng chảy tối thiểu, không được "giữ nước" một cách tuyệt đối. Điều này giúp các vùng nuôi thủy sản ở đồng bằng có nguồn nước ổn định, giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm.
Dòng chảy tối thiểu cũng là yếu tố quan trọng trong thích ứng biến đổi khí hậu, nhất là tại các vùng thường xuyên chịu hạn hán, xâm nhập mặn. Khi hệ thống sông ngòi duy trì được dòng chảy cơ bản, khả năng tự làm sạch của nước tăng lên, giảm ô nhiễm và tạo điều kiện phục hồi cho hệ sinh thái.
Ngoài phân vùng và dòng chảy, Thông tư còn nhấn mạnh đến việc bảo vệ và quản lý khai thác nước ngầm. Đây là nguồn tài nguyên quý giá, đặc biệt quan trọng đối với các tỉnh ven biển và đồng bằng, nơi thường xuyên bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sụt lún đất và suy thoái tầng chứa nước ngầm do khai thác quá mức. Ảnh: Minh Hoàng.
Hiện nay, nhiều khu vực ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sụt lún đất và suy thoái tầng chứa nước ngầm do khai thác quá mức. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại về hạ tầng mà còn trực tiếp đe dọa sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nhất là các mô hình nuôi tôm, cá tra – những đối tượng cần lượng nước ngọt lớn để duy trì chất lượng ao nuôi.
Việc đưa ra các quy định chặt chẽ về bảo vệ nước ngầm giúp giảm khai thác tự phát, tăng cường giám sát và đưa hoạt động này vào quy hoạch tổng thể. Đây là nền tảng quan trọng để đảm bảo an ninh nguồn nước.
Văn bản 41/VBHN-BNNMT hợp nhất Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước quy định chi tiết thi hành khoản 4 Điều 22, khoản 9 Điều 24, điểm b khoản 2 Điều 26, khoản 8 Điều 31, khoản 3 Điều 39 của Luật Tài nguyên nước về phân vùng chức năng nguồn nước mặt; xác định, điều chỉnh dòng chảy tối thiểu; xác định và tổ chức việc công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; bảo vệ nước dưới đất trong các hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 31 của Luật Tài nguyên nước; lập, điều chỉnh kế hoạch bảo vệ nước dưới đất; bổ sung nhân tạo nước dưới đất.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
|
HÀ NỘI UBND thành phố Hà Nội vừa xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước theo Kịch bản nguồn nước.
Hà Nội phấn đấu kiểm soát 90% hoạt động khai thác, sử dụng nước
Hà Nội xây dựng Bộ chỉ số phục vụ điều hành thời gian thực
Hà Nội triển khai xây dựng đô thị thông minh
Hà Nội quyết làm sạch, làm giàu dữ liệu đất đai trước 15/11
UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Công văn số 5054/UBND-NNMT, yêu cầu xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước phù hợp với kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình.
UBND thành phố Hà Nội vừa xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước theo kịch bản nguồn nước. Ảnh: Nguyễn Hà.
Theo chỉ đạo, Sở Nông nghiệp và Môi trường được giao nhiệm vụ cập nhật, đăng tải thường xuyên các quyết định công bố kịch bản nguồn nước lên Cổng thông tin điện tử của Sở, đồng thời xây dựng kế hoạch khai thác nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phù hợp với các Kịch bản nguồn nước đã được phê duyệt.
Công văn cũng yêu cầu Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp chặt chẽ với UBND các phường, xã trong việc kiểm soát khai thác nước dưới đất. Việc này nhằm hạn chế nguy cơ hạ thấp mực nước ngầm, sụt lún nền đất và xâm nhập mặn. Cùng với đó, các đơn vị liên quan phải tăng cường rà soát việc đăng ký, kê khai và cấp phép khai thác tài nguyên nước theo đúng quy định pháp luật.
Sở Xây dựng được giao xây dựng kế hoạch khai thác tài nguyên nước phục vụ sản xuất và cấp nước sinh hoạt, đảm bảo đồng bộ với các kịch bản nguồn nước hiện hành.
Đáng chú ý, UBND các địa phương cơ sở sẽ chịu trách nhiệm kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động khai thác nước dưới đất tại các khu vực cấm hoặc hạn chế, theo đúng quy định tại Nghị định số 53/2024/NĐ-CP và Nghị định số 54/2024/NĐ-CP của Chính phủ. Các trường hợp chưa kê khai, đăng ký khai thác sẽ bị đôn đốc xử lý, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về tài nguyên nước và hành nghề khoan nước dưới đất.
Song song với công tác triển khai tại cơ sở, Thành phố cũng yêu cầu đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm nước, sử dụng hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí nguồn tài nguyên quý giá này.
Cùng với đó, Trung tâm Truyền thông, Dữ liệu và Công nghệ số Thành phố được giao nhiệm vụ cập nhật liên tục kịch bản nguồn nước lên Cổng thông tin điện tử của thành phố, đảm bảo thông tin luôn được công khai minh bạch theo đúng quy định tại khoản 6 Điều 41 Nghị định 53/2024/NĐ-CP.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/
|
|
Hiện vùng Đông Gia Lai (Bình Định cũ) còn 12 hồ chứa đã xuống cấp, nguy cơ mất an toàn; đây là nỗi lo lớn của ngành chức năng khi mùa mưa lũ cận kề…
Quảng Trị khẩn trương sơ tán dân, bảo vệ mùa màng và an toàn hồ đập
Trực 24/24 tại các công trình thủy lợi mùa mưa bão
Hồ, đập lớn trước mùa mưa lũ: Giữ 'xanh' nguồn nước từ đập Bái Thượng
Nhiều hồ chứa tiềm ẩn nguy cơ
Theo ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai, sau sáp nhập, tỉnh Gia Lai mới có 283 hồ chứa lớn nhỏ; trong đó, có 87 hồ chứa có quy mô lớn, 49 hồ vừa và 147 hồ nhỏ. Riêng vùng Đông Gia Lai (tỉnh Bình Định cũ) có 164 hồ chứa; trong đó, có 62 hồ có quy mô lớn, 37 hồ vừa và 65 hồ nhỏ; có 36 hồ chứa có cửa van và 128 hồ có tràn tự do.
Qua công tác kiểm tra an toàn hồ đập trước mùa bão lũ năm 2025, ngành chức năng Gia Lai phát hiện trên địa bàn còn nhiều hồ chứa vừa và nhỏ do xây dựng cách đây đã hơn 40 năm, từ đó đến nay các đập đất chưa được gia cố mái thượng lưu, nền và thân đập bị thấm, kích thước mặt cắt ngang không đảm bảo do bị sạt trượt, không có vật thoát nước hạ lưu đập.
Thêm vào đó, tràn xả lũ chủ yếu là tràn tự nhiên nên bị xói lở phía hạ lưu; một số tràn làm bằng bê tông hoặc đá xây do “tuổi tác” đã cao nên hiện cũng đã hư hỏng, bong tróc vữa xây các tường cánh, bể tiêu và mái kênh xả sau tràn bị xói lở.
Hiện ở vùng Đông Gia Lai còn 12 hồ chứa nhỏ xuống cấp, nguy cơ mất an toàn; trong đó, có 11 hồ phải hạn chế tích nước và 1 hồ không được tích nước. Ảnh:V.Đ.T.
Cống lấy nước loại cống nút chai bị hư hỏng, rò rỉ dọc thân cống, khó vận hành; đối với các cống có van đóng mở qua nhiều năm sử dụng giờ cũng thường bị kẹt, rò rỉ nước. Đường quản lý vận hành hồ kết hợp cứu nạn, cứu hộ hầu hết là đường đất, nhỏ hẹp, khó đi lại, thường bị chia cắt khi có mưa lũ. Nhà quản lý công trình đầu mối hầu hết còn thiếu hoặc được xây dựng từ lâu hiện đã bị xuống cấp, hư hỏng; không có trang thiết bị phục vụ quản lý, nếu có chủ yếu là thủ công, chưa đáp ứng công tác quản lý, bảo vệ công trình.
“Trong 164 hồ chứa ở vùng phía Đông Gia Lai, trong đó có 62 hồ chứa lớn và 1 hồ chứa vừa do Công ty TNHH Khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL) Bình Định quản lý, vận hành; Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh quản lý 2 hồ chứa nhỏ; các địa phương quản lý 99 hồ, trong đó, có 36 hồ chứa vừa và 63 hồ chứa nhỏ”, ông Vũ Ngọc An cho hay.
Hồ chứa nhỏ, nỗi lo lớn
Kết quả kiểm tra an toàn hồ đập của ngành chức năng tỉnh Gia Lai cho thấy, trong 63 hồ chứa do Công ty TNHH KTCTTK Bình Định quản lý; trong đó, có 32 hồ được đánh giá an toàn mức A, 31 hồ được đánh giá an toàn mức B. Hai hồ chứa nhỏ do Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh quản lý được đánh giá an toàn mức B. Trong 99 hồ do các địa phương quản lý có 28 hồ được đánh giá an toàn mức A, 61 hồ được đánh giá an toàn mức B; đặc biệt, trong đó có 12 hồ chứa nhỏ được đánh giá nguy cơ mất an toàn cao; phải hạn chết tích nước 11 hồ, 1 hồ không được tích nước là hồ Bàu Sen ở xã Bình Phú.
“Trong 12 hồ có nguy cơ mất an toàn cao, hiện có 2 hồ Hóc Quăn và Thuận An đã được bố trí vốn sửa chữa, nâng cấp; 10 hồ còn lại là các hồ: Lòng Bong, Nam Hương, Bàu Dài, Bàu Sen, Hòa Mỹ, Hóc Bông, Hóc Sanh, Thủy Dé, Hóc Huy… chưa được bố trí kinh phí; riêng hồ Bàu Sen hiện do xuống cấp nghiêm trọng, không được tích nước hiện ngành chức năng Gia Lai đang đề xuất nguồn vốn sửa chữa từ quỹ phòng chống thiên tai của tỉnh”, ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai cho hay.
Giai đoạn 2021-2025, vùng Đông Gia Lai đã có nhiều nỗ lực nâng cấp, sửa chữa 12 hồ chứa nước. Ảnh: V.Đ.T.
Cũng theo ông An, trong 63 hồ chứa do Công ty TNHH KTCTTL Bình Định quản lý có 38 hồ có đập bị thấm; trong đó thấm nặng 6 hồ, gồm: Hồ Thạch Khê bị thấm nền chân đập, hồ Hóc Mít bị thấm nền, hồ Cây Sung bị thấm vai phải cống lấy nước, hồ Tân Thắng bị thấm mái đập, hồ Hòn Lập bị thấm vai phải và giữa đập; 2 hồ bị biến dạng mái đập do sạt lở, trượt mái thượng và hạ lưu là hồ Phú Hà và hồ Tam Sơn; 3 hồ bị xói lở thân tràn, đuôi tràn và bể tiêu năng là các hồ An Đỗ, Hóc Cau và Văn Khánh Đức.
Các hồ do địa phương quản lý nhiều đập bị thấm, nhiều nhất là tại huyện Phù Mỹ cũ với 16 hồ; trong đó thấm nặng là 2 hồ Bàu Bạn và Thuận An; 10 hồ bị hư hỏng thân cống; huyện Tây Sơn cũ cũng có 13 hồ có đập bị thấm, trong đó có 7 hồ bị thấm nặng là Bàu Sen, Hóc Bông, Nam Hương, Hòa Mỹ, Truông Ổi, Bàu Làng, Bàu Năng…, hều hết trà xả lũ chưa được gia cố kiên cố.
“Giai đoạn 2021-2025, vùng Đông Gia Lai (tỉnh Bình Định cũ) đã có nhiều nỗ lực nâng cấp, sửa chữa nhiều công trình hồ chứa; trong đó có các hồ Cây Điều, Hóc Hảo, Đồng Quang, Đá Bàn, Nhà Hố, Giàn Tranh, Chánh Hùng, Đá Vàng, Cây Thích, Suối Cầu, Hải Nam, Hóc Thánh, 12 hồ chứa nói trên cùng khởi công vào tháng 9/2023 và đã hoàn thành trong tháng 5/2025”, ông Vũ Ngọc An, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai cho hay.
Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn
|
|