Nhiều thành phố lớn trên thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng nước nghiêm trọng trong những năm gần đâyChạy dọc theo các con đường đầy bụi ở vùng nông thôn Mount Airy của Jamaica, rất dễ nhìn thấy hàng chục chiếc thùng nước màu đen cao 2 m được nối với ống nước thông lên mái nhà của các căn nhà lân cận. Những thùng nước này được dùng để đựng nước mưa và thông qua một hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt, đưa nước đến các cánh đồng trồng cà chua, tiêu và khoai lang gần đó. Ở một khu vực mà hạn hán ngày càng trở nên thường xuyên, do tác động của biến đổi khí hậu, những thùng nước này đã trở thành phao cứu sinh của các hộ nông dân tại đây. “Lượng mưa ngày càng ít đi và khó đoán trước. Có được hệ thống thu gom nước mưa như vậy thật là tốt”, Althea Spencer, một nông dân ở khu vực này, cho biết.
Hệ thống thu thập nước mưa ở Mount Airy nằm trong chương trình hỗ trợ của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) nhằm quản lý nước bền vững hơn và tìm ra những nguồn nước mới, bằng việc áp dụng đa dạng các phương pháp từ lọc nước thải cho đến “gieo mây”. Những nỗ lực này ngày càng phổ biến trên toàn cầu trong bối cảnh Liên Hiệp Quốc khuyến cáo thế giới đang tiến gần đến cuộc khủng hoảng nước, với dự đoán sẽ thiếu hụt 40% nguồn nước ngọt vào năm 2030. Đó là lý do năm nay an ninh nguồn nước là một chủ đề quan trọng trên bàn nghị luận của kỳ họp thứ 6 Hội đồng Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEA) diễn ra từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3/2024. “Khan hiếm nước đã trở thành một vấn đề nhức nhối đối với ngày càng nhiều quốc gia”, Leticia Carvalho thuộc UNEP nhận xét. 2/3 dân số thế giới căng thẳng nguồn nước Hiện tại, 2,4 tỉ người đang sống trong các quốc gia căng thẳng nguồn nước, được định nghĩa là các quốc gia sử dụng ít nhất 25% các nguồn tài nguyên nước ngọt tái tạo để đáp ứng nhu cầu về nước. Những khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất là Nam và Trung Á, Bắc Phi. Tại Tây và Trung Phi, hồ nước ngọt Chad đã thu hẹp tới 90% trong 60 năm qua, gây ra những thách thức về an ninh và kinh tế cho các quốc gia xung quanh như Cameroon, Chad, Trung Phi, Libya, Niger và Nigeria. Tại Tây Ban Nha, một số nơi đã không có mưa trong 3 năm, hạn hán dự báo sẽ trở nên căng thẳng hơn và thường xuyên hơn khi trái đất ngày càng nóng hơn. Các thành phố trên thế giới từ Cape Town ở Nam Phi cho đến Chennai ở Ấn Độ đều đối mặt với cuộc khủng hoảng nước nghiêm trọng trong những năm gần đây. Thậm chí các nước phát triển như Mỹ cũng chứng kiến mực nước giảm xuống mức thấp kỷ lục.
Cùng với biến đổi khí hậu, cuộc khủng hoảng nước càng trầm trọng bởi tốc độ đô thị hóa không kiểm soát, tăng trưởng dân số nhanh, ô nhiễm và mở rộng đất đai. Tình trạng thiếu hụt nguồn nước đã và đang ảnh hưởng đến mọi thứ từ an ninh lương thực đến đa dạng sinh học và trong những năm tới sẽ còn trở nên thường xuyên hơn. Dự báo vào năm tới, 1,8 tỉ người sẽ đối mặt với cái mà Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) gọi là “khan hiếm nước tuyệt đối” (được định nghĩa là nguồn nước tái tạo dưới 500 m3/năm/người) và 2/3 dân số thế giới sẽ rơi vào tình trạng căng thẳng nguồn nước.
Xưa nay, hầu hết nước ngọt để uống và vệ sinh đều đến từ các tầng ngậm nước. Nhưng nhiều tầng ngậm nước đã cạn kiệt do khai thác quá mức, mùa khô và hạn hán kéo dài. Đây là rủi ro gia tăng cho các đảo quốc nhỏ, nơi nước ngọt ngày càng bị đe dọa bởi tình trạng nhiễm mặn khi mực nước biển dâng cao và các vùng đất bị thoái hóa chìm xuống.
Stefan Uhlenbrook, Giám đốc Thủy văn, Nước và Băng quyển tại Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), nhận định nhu cầu nước “đang vượt hơn lượng nước ngọt có sẵn và biến đổi khí hậu đang làm trầm trọng thêm vấn đề này”. Ông nhấn mạnh, biến đổi khí hậu đang làm trầm trọng thêm câu chuyện khan hiếm nước và những nguy hiểm liên quan đến nước từ lũ lụt cho đến hạn hán.
Mina Guli, CEO của Thirst, tổ chức phi lợi nhuận về các vấn đề nước, nhắc đến một nguy cơ lớn khác. “Đây không chỉ là thách thức môi trường mà còn là một rủi ro kinh tế và thương mại. Đó là rủi ro chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư đã không đánh giá được tầm quan trọng và quy mô của thách thức về nước mà chúng ta đang đối mặt”, Guli nói.
Lấy ví dụ về Bỉ, một trong những quốc gia tại châu Âu chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tình trạng căng thẳng nước, theo Viện Tài nguyên Thế giới, dù nước này vẫn có mưa khá thường xuyên. Hiện tại, nguồn nước ngọt của Bỉ đang không đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân cũng như của các ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Nông nghiệp và sản xuất lương thực đang là ngành sử dụng nhiều nước nhất, chiếm tới 70% lượng nước ngọt trong khi công nghiệp chiếm 20% và chỉ 10% cho nhu cầu nội địa, theo Uhlenbrook thuộc WMO. Guli của Thirst cũng đưa ra dẫn chứng về mức tiêu thụ nước khổng lồ của ngành nông nghiệp: để làm ra một bộ trang phục, cần lượng nước còn hơn cả một người uống trong 40 năm. Với sự khan hiếm nước đang diễn ra và sẽ còn trầm trọng hơn trong tương lai, các ngành công nghiệp và nông nghiệp sẽ ngày càng cảm thấy gian nan, Guli dự báo. Tại Pháp, thậm chí một số nhà máy điện hạt nhân đã phải tạm thời đóng cửa để giảm sản lượng điện do thiếu nước làm mát.Đối phó với khủng hoảng nước
Đối phó với khủng hoảng nước
Để giải quyết tình trạng khan hiếm nước toàn cầu, Carvalho của UNEP cho rằng các nhà làm chính sách ở những quốc gia khan hiếm nước cần phải suy nghĩ lại một cách triệt để các chính sách quy hoạch nước bằng cách tăng cường những phương pháp khai thác nguồn nước “không chính thống”. “Sử dụng hệ thống nước hiện có của chúng ta một cách hiệu quả hơn trong khi khai thác các nguồn nước không chính thống có tiềm năng to lớn giúp cải thiện cuộc sống và kế sinh nhai của người dân”, bà nói.
Chẳng hạn, tại một số khu vực nông thôn ở Chile và Peru, người dân ở đây đang thu thập nước lơ lửng trong không khí. Một số hệ thống như vậy sử dụng một loại lưới mịn để giữ lại những giọt sương mù nhỏ li ti và hút chúng vào một bể chứa.
Nhiều nơi cũng đang xem nước thải như một lời giải cho vấn đề căng thẳng nguồn nước. Báo cáo UNEP năm 2023 chỉ ra nước thải có thể cung cấp gấp hơn 10 lần lượng nước được cấp bởi các nhà máy khử muối hiện có trên thế giới. Tuy nhiên, một thực tế là chỉ 58% nước thải hộ gia đình được xử lý một cách an toàn. Nước thải thường không được tái sử dụng do lo ngại vấn đề lây nhiễm, vi nhựa và các thuốc kháng khuẩn. Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng với các chính sách và công nghệ phù hợp, chúng ta hoàn toàn có thể cho nước thải “một cuộc đời khác”.
Những năm gần đây, các quốc gia đã bắt đầu ưa chuộng phương pháp khử muối, một quy trình tách muối khỏi nước muối và lọc thành nước uống. Theo một báo cáo của Liên Hiệp Quốc vào năm 2018, có 15.906 nhà máy khử muối đang hoạt động tạo ra khoảng 95 triệu m3 nước được khử muối mỗi ngày để phục vụ nhu cầu sử dụng của con người, trong đó 48% được sản xuất tại Tây Á và Bắc Phi. Sự phụ thuộc của thế giới vào công nghệ khử muối được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh trong những năm tới. Nhiều quốc gia như Bahamas, Maldives và Malta đều sử dụng phương pháp khử muối để đáp ứng 100% nhu cầu nước của họ và khoảng phân nửa nước uống của Ả Rập Saudi đến từ các nhà máy khử muối. Tuy nhiên, khử muối đòi hỏi phải đầu tư rất lớn vào hệ thống đường ống và máy bơm, trong khi nhiên liệu hóa thạch thường được sử dụng trong các quy trình khử muối lại tiêu tốn nhiều năng lượng trong khi góp phần gây ra tình trạng nóng lên toàn cầu. Việc khử nước muối độc hại cũng gây ô nhiễm hệ sinh thái biển. Trong công cuộc tìm kiếm nguồn nước mới, các quốc gia cũng đang tìm cách khai thác bầu khí quyển, ước tính chứa 13.000 km3 hơi nước. Ngày càng nhiều quốc gia đang thử nghiệm giải pháp “gieo mây”, một kỹ thuật “gieo” bạc iodide vào các đám mây để tạo mưa hoặc tuyết. Các quốc gia từ Úc đến Nam Phi đều đã đầu tư vào công nghệ này. Trung Quốc cũng đang đưa ra một trong những chương trình “gieo mây” tham vọng nhất thế giới. Song song với việc tìm kiếm các nguồn nước ngọt mới, các chuyên gia khuyến nghị vấn đề quản lý nguồn nước hiệu quả hơn cần được đặt lên hàng đầu. Bởi lẽ, như Guli nhận xét: “Một lượng lớn nước đang bị lãng phí. Nước không đến từ vòi mà đến từ một hệ sinh thái hiệu quả”. Ở khía cạnh này, cơ hội lớn nhất nằm ở việc làm giảm thất thoát nước trong ngành nông nghiệp, chẳng hạn bằng cách đầu tư vào hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt. Các thành phố, vốn là nơi sinh sống của hơn 50% dân số thế giới, cũng phải ráo riết ngăn chặn tình trạng thất thoát nước như đường ống bị rò rỉ. Tại Mỹ, chẳng hạn, hơn 3.700 tỉ lít nước bị thất thoát hằng năm do hệ thống ống nước ở các hộ gia đình bị lỗi. Cate Lamb, chuyên gia kinh tế học và rủi ro, an ninh nguồn nước, nhận định: “Nhìn chung, các công nghệ và giải pháp đã có rồi. Điều cần làm là phải triệt để chuyển đổi phương thức thực hành nông nghiệp của chúng ta. Chúng ta ần theo dõi, giám sát một cách nhất quán ở mọi cấp độ của nền kinh tế, từ cấp quốc gia, địa phương, doanh nghiệp, tổ chức tài chính để đảm bảo không sử dụng nước nhiều hơn mức chúng ta có thể duy trì”. Lamb cũng cho biết một tín hiệu tích cực là các tổ chức, doanh nghiệp cũng đã bắt tay hành động. Một ví dụ là gần đây ngân hàng Tây Ban Nha BBVA đã cấp một khoản vay cho công ty điện lực Iberdrola với mức lãi suất sẽ được “neo” theo các chỉ số nước cụ thể. Đồng quan điểm, Carvalho thuộc UNEP cho rằng: “Các quốc gia cần phải sáng tạo hơn trong cách họ quản lý, bảo tồn và đảm bảo các nguồn nước trong những năm sắp tới. Sử dụng nước khôn ngoan và hài hòa với thiên nhiên là điều rất cần thiết để đẩy nhanh tiến độ triển khai các mục tiêu phát triển bền vững”
Nguồn: nhipcaudautu.vn
|
(TN&MT) - Nhà máy xử lý nước sạch (NMXLNS) Vạn Niên có công suất 120.000 m3/ngày đêm (giai đoạn 1 là 60.000 m3/ngày đêm), tổng mức đầu tư gần 800 tỉ đồng, là nhà máy nước sạch lớn nhất tỉnh và được ví như “trái tim” của hệ thống cấp nước Thừa Thiên- Huế.
Công ty CP Cấp nước Thừa Thiên- Huế (HueWACO) vừa tổ chức Lễ khánh thành NMXLNS Vạn Niên (phường Thủy Biều, TP. Huế).
Dự án được UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 1611/QĐ-UBND ngày 3/7/2020, phân kỳ thực hiện theo 2 giai đoạn, với tổng mức đầu tư là 794 tỉ đồng, giai đoạn 1 là 600,5 tỉ đồng; khởi công ngày 24/2/2021 do liên danh nhà thầu EPC TNG – Kobelco Eco Solutions Việt Nam thực hiện.
Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên
Sau hơn 3 năm triển khai, Nhà máy XLNS Vạn Niên đã chính thức vận hành, phát nước thương mại vào ngày 18/9/2023, đưa tổng công suất cấp nước sạch toàn tỉnh đạt 300.000 m3/ngày đêm.
NMXLNS Vạn Niên sử dụng công nghệ “bể lắng lọc thông minh, chất lượng cao, thân thiện môi trường”. Giải pháp công nghệ này giúp xử lý hiệu quả nguồn nước có độ đục cao đặc biệt vào mùa mưa lũ với độ đục sau lắng luôn dưới 0,5 NTU và chất lượng sau lọc có độ đục luôn dưới 0,02 NTU (thấp hơn 100 lần so với tiêu chuẩn Việt Nam), Fe, Mn dưới ngưỡng 0,001mg/l (thấp hơn tiêu chuẩn Việt Nam 300 lần)...
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Hải Minh ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của tập thể lãnh đạo, cán bộ, người lao động HueWACO và liên danh nhà thầu EPC; sự phối hợp các sở, ban, ngành liên quan để Dự án NMXLNS Vạn Niên hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo cấp nước an toàn, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh nhà. Phó Chủ tịch UBND tỉnh cũng đề nghị HueWACO tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả, xứng danh là đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên sử dụng công nghệ “bể lắng lọc thông minh, chất lượng cao, thân thiện môi trường”
Dịp này, để quản lý, vận hành thông minh hệ thống cấp nước, HueWACO cũng khánh thành Trung tâm Vận hành tự động Hệ thống cấp nước toàn công ty. Trung tâm tích hợp hệ thống điều khiển tự động SCADA các nhà máy tại khu vực trung tâm TP. Huế, mạng lưới và các trạm quan trắc.
Lãnh đạo HueWACO cho hay sẽ tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 trong thời gian tới với việc tích hợp mở rộng cho khu vực phía Bắc và Nam của tỉnh, từng bước thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quản lý, hướng đến quản lý thông minh hệ thống cấp nước, phù hợp với định hướng xây dựng đô thị thông minh tỉnh.
Công ty CP Cấp nước Thừa Thiên- Huế (HueWACO), tiền thân là nhà máy nước Vạn Niên khởi công xây dựng năm 1909 và hoàn thành vào năm 1911, sớm nhất ở miền Trung. HueWACO là đơn vị được UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế giao nhiệm vụ cấp nước sạch trên địa bàn tỉnh không phân biệt đô thị hay nông thôn. Sự kiện khánh thành Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên đánh dấu cột mốc đặc biệt trong tiến trình phát triển 115 năm của HueWACO. Đến nay, HueWACO đã cấp nước sạch đảm bảo an toàn cho hơn 97 % người dân trên địa bàn toàn tỉnh.
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
Nguồn nước ô nhiễm ở Việt Nam có thể gây tổn thất ước tính tới 3,5% GDP/năm. Những thách thức nào đang đặt ra trong việc sử dụng hiệu quả và đảm bảo an ninh nguồn nước?Thiệt hại kinh tế khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm
Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nguồn nước ô nhiễm ở Việt Nam có thể gây tổn thất ước tính tới 3,5% GDP mỗi năm. Phát triển đô thị, xả nước thải công nghiệp chưa qua xử lý, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp và nhiều vấn đề khác đang gây ra những áp lực lớn không ngừng đối với các lưu vực sông.
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè từng đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề. Hơn 10 năm trước, TP Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn 8.600 tỷ đồng để cải tạo môi trường, hứa hẹn một không gian xanh mát giữa lòng đô thị. Thế nhưng, thực tế, nhiều đoạn dưới lòng kênh lại nhếch nhác, thường xuyên bốc mùi hôi thối.
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè dài gần 10km, chảy qua nhiều quận đổ ra sông Sài Gòn. Con kênh dù đã được cải tạo, nhiều đoạn nhìn có vẻ đẹp tuy nhiên chất lượng nguồn nước lại bị ô nhiễm bởi toàn bộ lượng nước thải đô thị vẫn thải trực tiếp ra kênh rồi bơm thẳng ra sông Sài Gòn thông qua hệ thống cống ngầm dưới lòng kênh mà chưa được thu gom, xử lý theo đúng tiêu chuẩn.
Trong khi nguồn ngoại sinh suy giảm nghiêm trọng thì nguồn nội sinh lại ô nhiễm khiến việc cung cấp nguồn nước mặt cho hoạt động nông nghiệp đang tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng tiền ngân sách của các địa phương trong nhiều năm qua.
Theo PGS.TS Dương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học tài nguyên nước: ''Tôi cho rằng việc cải tạo các dòng sông chỉ giải quyết vấn đề thẩm mỹ còn về chất lượng cũng chỉ cải thiện trong 1-3 năm đầu tiên rồi sau đó lại gần như sẽ đâu vào đấy. Bởi bản chất các hệ thống thải ra sông không có gì thay đổi, chỉ có đường thoát thay đổi, lượng nước thải xả ra thì vẫn không thay đổi''.
Tình trạng tái ô nhiễm sau khi cải tạo vệ sinh không chỉ xảy ra ở kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè mà còn xuất hiện ở nhiều kênh khác trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Ngoài lãng phí khi phải tiếp tục xử lý ô nhiễm thì thực trạng này còn ảnh hưởng đến tài nguyên nước sông Sài Gòn.
Hầu hết các sông chính ở Việt Nam hiện nay đều đã và đang bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau, trong đó ô nhiễm chủ yếu các vùng trung và hạ du; khu vực tập trung đông dân cư và các khu công nghiệp, hiện tượng ô nhiễm diễn ra nghiêm trọng hơn.
Cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, nước ngọt không phải là vô hạn. Tổng lượng nước mặt của các lưu vực sông trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 840 tỷ m3/năm, nhưng chỉ có khoảng 37% là nước nội sinh nằm trong lãnh thổ, còn 63% là nước chảy vào từ các con sông qua các nước láng giềng.
Hiện nay lượng nước ngoại sinh này đang suy giảm từng năm, khiến lượng nước mặt của Việt đang ngày càng cạn kiệt đến mức báo động. Trong khi đó việc sử dụng nguồn nước mặt trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải… chưa hiệu quả đang khiến cho tài nguyên này bị thất thoát và lãng phí.
Sử dụng nguồn nước chưa hiệu quả
Cống Cẩm Đình, huyện Phúc Thọ, Hà Nội, điểm dẫn nước từ sông Hồng vào sông Đáy, nước sông Hồng Cạn, khu vực cửa cống giờ là nơi để người dân đánh nốt những mẻ cá cuối trước khi thành những vũng nước tù.
Đầu vào không có nên trên hệ thống sông Đáy nguồn nước mặt đang suy giảm nghiêm trọng, hiện nay nhiều điểm đã trơ đáy. Cống Nhật Tựu, huyện Kim Bảng, Hà Nam, thời điểm này, khi bà con cần tưới dưỡng thì nguồn nước lấy từ sông vào lại đèn ngòm, nổi bọt trắng.
Trong khi nguồn ngoại sinh suy giảm nghiêm trọng thì nguồn nội sinh lại ô nhiễm khiến việc cung cấp nguồn nước mặt cho hoạt động nông nghiệp đang tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng tiền ngân sách của các địa phương trong nhiều năm qua. Chi phí đã lớn nhưng hầu hết các khoản thu từ việc sử dụng nguồn nước mặt trong hoạt động nông nghiệp lại không có.
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà việc thất thoát các khoản phí từ nguồn nước mặt trong lĩnh vực giao thông vận tải hiện cũng được coi là rất lớn. Mỗi năm, trung bình số hàng hóa đi bằng đường thủy từ khu vực ĐBSCL đến TP Hồ Chí Minh để xuất khẩu qua các cảng nước sâu tương đương gần 23 triệu tấn. Chi phí để vận chuyển hàng hóa nếu đi bằng đường thủy chỉ mất 170.000 đồng/tấn, trong khi đó nếu đi bằng đường bộ sẽ là hơn 500.000 đồng/tấn, cao gấp gần 3 lần nếu đi bằng đường thủy.
Rõ ràng, đi đường bộ sẽ phải chịu rất nhiều loại phụ phí phát sinh, cầu phà đường bộ, nhưng bằng đường thủy lại đang chưa bị thu phí vận tải trên hệ thống nước mặt. Việc chậm thu phí này sẽ làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Trong khi nhiều quốc gia bắt đầu phát kiến ra những công nghệ xử lý nước thải, lọc nước biển để chủ động tạo ra nguồn nước ngọt thì chúng ta còn đang loay hoay với bài toán sử dụng như thế nào cho hiệu quả tài nguyên nước.
Tình trạng sử dụng tài nguyên nước chưa hiệu quả, nguồn nước liên tục bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng cùng với ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu đã và đang gây sức ép không nhỏ đến đời sống người dân và tăng trưởng kinh tế.
Những năm gần đây, chỉ tính riêng lĩnh vực xử lý nước thải đô thị, dự tính từ năm 2015 đến năm 2025, Chính phủ cần đầu tư khoảng 8,3 tỷ USD. Những con số khổng lồ cho một quốc gia đang phát triển và cần nguồn lực lớn để hiện thực hóa rất nhiều mục tiêu trở thành một quốc gia phát triển bền vững.
Phục hồi nguồn nước bị suy thoái
Mạng lưới đường thủy của đồng bằng sông Cửu Long, tất cả dòng sông chính cùng các phụ lưu, hệ thống kênh, rạch chảy qua các khu công nghiệp, khu dân cư, các vùng tài nguyên tạo nên sự kết nối, mang lại những lợi ích thiết thực cho phát triển kinh tế. Đây chính là một trong những giá trị mà nguồn tài nguyên nước mang lại. So với đường bộ, vận tải theo đường sông có khối lượng lớn, lịch trình ổn định và chi phí tiết kiệm hơn từ 30-40%, được đánh giá là chiếm ưu thế tuyệt đối trong các phương tiện vận tải hiện nay. Nếu như đường bộ bị giới hạn về tải trọng cầu, đường thì đường thủy đáp ứng được tất cả mặt hàng cồng kềnh, siêu trường, siêu trọng. Điều này cho thấy một phần giá trị của tài nguyên nước, từ đó đặt ra vấn đề bảo vệ và quản lý bền vững nguồn nước trước tình trạng các dòng sông bị ô nhiễm và suy thoái, cạn kiệt như hiện nay.
Thiếu sự kết nối, phối hợp chặt chẽ giữa các dự án liên quan đến xử lý ô nhiễm nguồn nước mặt đã dẫn tới kém hiệu quả trong việc khai thác và quản lý tài nguyên nước. Nguyên nhân chính là nguồn thải gây ô nhiễm vẫn chưa kiểm soát được triệt để.
Việt Nam là một trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó tài nguyên nước sẽ chịu những ảnh hưởng lớn nhất và sớm nhất do những diễn biến bất thường về lượng mưa và nước biển dâng. Sự phát triển bền vững của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có bảo đảm an ninh nguồn nước. Chính vì vậy, quản lý tài nguyên nước là nhân tố hàng đầu cho phát triển bền vững kinh tế – xã hội.
Nguồn tin: vtv.vn
|
Sau gần 7 năm triển khai thực hiện Nghị định số 82/2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt được 681 quyết định tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền gần 10.200 tỷ đồng.
QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ ĐIỀU KIỆN NĂNG LỰC Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (gọi tắt là Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước) gồm 05 Chương, 58 Điều. Trong đó: Chương I: Những quy định chung; Chương II: Kê khai, đăng ký, cấp phép thăm dò, khai thác tài nguyên nước; Chương III: Hành nghề khoan nước dưới đất và dịch vụ về tài nguyên nước; Chương IV: Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và Chương V: Điều khoản thi hành. Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước được xây dựng trên quan điểm quy định chi tiết những điều, khoản mà Luật đã giao cho Chính phủ, bảo đảm sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất với pháp luật về tài nguyên nước và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, kế thừa, giữ lại những quy định còn phù hợp, khắc phục những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định khác và những vấn đề vướng mắc phát sinh, tồn tại trong thực tiễn khi áp dụng các quy định của Luật tài nguyên nước 2012.
Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước được xây dựng theo hướng các quy định về thủ tục hành chính đảm bảo rõ ràng, cụ thể, minh bạch; đơn giản hoá thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bên cạnh đó, Dự thảo Nghị định quy định cụ thể các trường hợp đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khả thi, thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước trong thực thi quy định pháp luật về tài nguyên nước, đồng thời nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Một trong những điểm đáng chú ý của Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước là đơn giản hoá thủ tục kê khai, đăng ký, cấp phép. Theo đó, các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ sinh hoạt sẽ phải thực hiện kê khai; các công trình khai thác nước dưới đất phục vụ một số mục đích có quy mô nhỏ; công trình đập ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch chỉ có mục đích ngăn mặn, tạo nguồn, chống ngập, tạo cảnh quan; các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch… sẽ phải thực hiện đăng ký thay vì phải lập hồ sơ đề nghị cấp phép như trước đây. So với Luật tài nguyên nước 2012, Dự thảo Nghị định sẽ giảm số ngày thẩm định hồ sơ từ 45 ngày xuống còn 36 ngày đối với thủ tục cấp mới giấy phép và 40 ngày xuống còn 31 ngày đối với thủ tục điều chỉnh, gia hạn; thủ tục cấp lại giấy phép giảm 4 ngày, còn 16 ngày. Ngoài ra, Dự thảo Nghị định này là quy định cụ thể về điều kiện năng lực của tổ chức được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cung cấp dịch vụ về tài nguyên nước; Điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ cung cấp dịch vụ hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước; dịch vụ hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa, liên hồ chứa cũng như trách nhiệm của các tổ chức nêu trên đảm bảo trong quá trình thực thi. Để bảo đảm Luật tài nguyên nước được triển khai thi hành Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp ý kiến, hoàn thiện và trình Bộ Tư pháp trong tháng này, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến trong thời gian tới. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC MIỄN TIỀN CẤP QUYỀN KHAI THÁC? Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước có những điểm gì mới đáng chú ý? Những đối tượng nào sẽ phải nộp tiền cấp quyền khai thác nước?
Bà Nguyễn Thị Phương Hoa, trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài Nguyên và Môi trường
PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài Nguyên và Môi trường về nội dung này: PV: Xin bà cho biết những điểm mới của Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước? Bà Nguyễn Thị Phương Hoa: Các quy định liên quan về kê khai, đăng ký. Luật Tài nguyên nước 2023 quy định bổ sung thêm đối tượng kê khai là các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ cho mục đích sinh hoạt. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định quy định theo hướng kê khai rất đơn giản, trên ứng dụng điện tử, ứng dụng số. Bộ Tài nguyên Môi trường sẽ xây dựng App về tài nguyên nước và sau đó sẽ tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Đối với việc đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước, ngoài trường hợp khai thác nước mặt quy mô vừa để sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, Luật Tài nguyên nước 2023 bổ sung một số trường hợp phải đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể các trường hợp để đảm bảo tính thực thi. Thứ nhất là các trường hợp khai thác, sử dụng nước dưới đất quy mô nhỏ để sử dụng cho các mục đích ngoài mục đích khai thác nước dưới đất hộ gia đình và cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phòng cháy chữa cháy... Thứ hai, khai thác nước biển quy mô vừa để sử dụng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đảo và trên đất liền. Thứ ba, các công trình ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch có quy mô vừa và nhỏ với mục đích tạo nguồn, ngăn mặn, chống ngập hoặc tạo cảnh quan. Thứ tư, những trường hợp sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, hồ chứa để cho hoạt động nuôi trồng thủy sản, kinh doanh, dịch vụ có quy mô không thuộc trường hợp quy mô nhỏ. Thứ năm, các trường hợp đào sông suối, hồ, ao kênh mương, rạch để tạo không gian thu, trữ nước, dẫn nước, tạo cảnh quan. Đối với tất cả các trường hợp đăng ký như tôi vừa nêu, trong quá trình khai thác, sử dụng mà có những trường hợp mà khai thác, sử dụng nước tiếp mà có quy mô mà thuộc trường hợp phải cấp phép thì cũng sẽ phải thực hiện việc cấp phép. Ngoài ra, Dự thảo nghị định lần này quy định liên quan đến việc tạm dừng có thời hạn hiệu lực của giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác, sử dụng nước. Quyền lợi của họ là sẽ được giảm tiền cấp quyền khai thác nước trên cơ sở là trừ với số ngày mà họ dừng việc khai thác đó. PV: Thưa bà, dự thảo nghị định bổ sung những trường hợp nào cần phải thu tiền cấp quyền khai thác nước và những trường hợp nào được miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước? Bà Nguyễn Thị Phương Hoa: Dự thảo Nghị định bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, bao gồm khai thác nước mặt để phát điện cho mục đích thương mại và khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước cho nông nghiệp và cấp cho sinh hoạt. Đối tượng được miễn tiền cấp quyền khai thác nước là các trường hợp cấp nước cho sinh hoạt của người dân ở các khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nhằm tạo điều kiện cho bà con ở những vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, còn có hạng mục công trình khai thác nước đã được Chính phủ bảo lãnh và trường hợp các công trình khai thác, sử dụng nước trong thời gian bị hư hỏng và sự cố bất khả kháng dẫn đến không thể tiếp tục khai thác nước, buộc phải dừng việc khai thác. Các đối tượng được giảm tiền cấp quyền khai thác, có 4 trường hợp. Bao gồm, các công trình khai thác nước phải cắt, giảm lượng nước khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu cắt giảm, đặc biệt trong trường hợp hạn hán thiếu nước, xâm nhập mặn; các công trình khai thác, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, tiết kiệm nước và đối với hồ chứa đã vận hành phải điều chỉnh, bổ sung dung tích phòng lũ cho hạ du so với nhiệm vụ của hồ chứa đã được phê duyệt. PV: Vâng. Xin cảm ơn bà. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, KHAI THÁC HIỆU QUẢ Vì sao phải cần thiết ban hành Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước? Nếu Nghị định được ban hành sẽ tác động xã hội ra sao? PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Thanh Tùng, nguyên Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. PV: Xin ông cho biết sự cần thiết ban hành nghị định quy đinh chi tiết về việc hành nghề khai thác nước, kê khai đăng ký cấp phép dịch vụ cấp quyền khai thác tài nguyên nước? Ông Bùi Thanh Tùng: Luật Tài nguyên nước năm 2023 được tiếp cận với quan điểm rất mới, đó là coi nước là một nguồn tài nguyên, thứ 2 là quan điểm phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh phải bảo vệ nguồn nước, phải khai thác tiết kiệm, hiệu quả; thứ 3 vì nó là một nguồn tài nguyên cho nên cũng có thể coi là một loại hàng hóa và trong một số trường hợp khi khai thác, sử dụng thì vẫn phải thu tiền sử dụng nước. Chính vì vậy Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định các nội dung liên quan đến bảo vệ nước dưới đất, hay quy định về việc kê khai, đăng ký, cấp phép đối với việc thăm dò, khai thác, sử dụng nước; quy định về tiền cấp quyền khai thác; về dịch vụ đối với tài nguyên nước. Cho nên Chính phủ phải ban hành nghị định để cụ thể hóa các nội dung trong Luật. Cho nên Nghị định quy định chi tiết về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai đăng ký cấp phép sử dụng tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là rất cần thiết. PV: Dự thảo nghị định lần này cũng bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, nước cấp cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Ông có ý kiến gì về quy định này? Ông Bùi Thanh Tùng: Khi thảo luận về Luật Tài nguyên nước trong năm 2023 cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, liên quan đến việc chúng ta đang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản thì tại sao bây giờ lại đưa ra khái niệm cấp quyền khai thác nước cho lĩnh vực này. Tuy nhiên, sau rất nhiều thảo luận thì cũng đều thống nhất quan điểm là nếu chúng ta coi nước là một tài nguyên thì phải bảo vệ, phải sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và một trong những cách để vừa bảo vệ, vừa sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đó là chúng ta phải thu phí khai thác, hay thu tiền cấp quyền khai thác. Đương nhiên sản xuất nông nghiệp hay nuôi trồng thủy sản cũng là một hoạt động kinh tế và việc sử dụng tài nguyên để hoạt động kinh tế thì cũng cần phải trả một chi phí nhất định. Tương tự như vậy thì nước sinh hoạt, hầu hết tại các đô thị lớn hiện nay thì người dân đang phải trả tiền cho nước sinh hoạt, thế thì không có lý do gì các công ty khai thác nước lại không phải trả tiền cấp quyền khai thác. Tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng khi khai thác nước đều phải trả tiền cấp quyền khai thác. Ví dụ nếu lượng nước sử dụng không vượt quá 100m3/ngày đêm và đối với nước sinh hoạt tại địa bàn vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn thì không quá 200m3/ngày đêm thì cũng không phải làm thủ tục để cấp phép hay đăng ký khai thác. Đối với hộ gia đình khi sử dụng nước phục vụ cho sinh hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản quy mô hộ gia đình thì cũng không phải đăng ký, không phải cấp phép, mà chỉ cần kê khai để giúp cơ quan quản lý có thể quản lý mức độ sử dụng cũng như quản lý một cách tổng thể tài nguyên nước của chúng ta đang được khai thác như thế nào mà thôi. Như vậy việc chúng ta quy định về cấp phép tài nguyên nước chủ yếu nhằm vào các đối tượng là các tổ chức, cá nhân khai thác quy mô lớn, mang tính chất kinh doanh dịch vụ. Đó là điều công bằng và chúng ta cần phải làm. PV: Theo ông, nếu Nghị định được ban hành thì sẽ có những tác động xã hội như thế nào? Ông Bùi Thanh Tùng: Khi nghị định được ban hành chúng ta sẽ đạt được mấy điều, một là việc chúng ta đưa vào các quy định chặt chẽ hơn liên quan đến việc cấp phép đối với việc khai thác nước dưới đất là rất cần thiết để đảm bảo duy trì và bảo vệ nguồn nước ngầm, đặc biệt là ở một số đô thị lớn, nếu chúng ta không có sự kiểm soát chặt chẽ thì nguồn nước ngầm sẽ bị suy giảm nghiêm trọng. Còn đối với việc cấp quyền khai thác cũng như quy đinh rõ các tổ chức, cá nhân khai thác nước sử dụng cho mục đích khác nhau phải được cấp phép, được đăng ký, được kê khai thì đấy chính là một cách để chúng ta quản lý tốt hơn việc sử dụng tài nguyên. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn đúng để chúng ta đảm bảo tính phát triển bền vững, để chúng ta có thể dành các tài nguyên rất quý là tài nguyên nước cho các thế hệ tương lai. PV: Xin cảm ơn ông.
Nguồn tin: vovgiaothong.vn
|
Ngày Nước thế giới 22/3/2024 được Liên hợp quốc phát động với chủ đề “Leveraging water for peace” – “Nước cho hòa hình”, tập trung vào vai trò quan trọng của tài nguyên nước đối với sự ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Khi nguồn nước bị khan hiếm hoặc ô nhiễm, khi mọi người không có khả năng tiếp cận nước an toàn hoặc không được tiếp cận nước một cách bình đẳng, căng thẳng có thê gia tăng giữa những cộng đồng và các quốc gia. Theo báo cáo của Ủy ban về Nước của Liên hợp quốc (UN-Water), hiện có hơn 3 tỷ người trên toàn thế giới phụ thuộc vào nguồn nước xuyên biên giới, Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu và dân số toàn cầu tăng lên như hiện nay, chúng ta phải đoàn kết để bảo vệ và bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá nàỳ. Bằng cách cùng nhau hành động để cân bằng quyền con người và nhu cầu của mọi người về nước, nước có thể là động lực ổn định và là chất xúc tác cho sự phát triển bền vững hôm nay và mai sau.
Dưới đây là Một số khẩu hiệu tuyên truyền Ngày Nước thế giới 22/3/2024: – Nước – Cầu nối tới hòa bình và thịnh vượng. – Hợp tác vì nước, duy trì hòa bình, thịnh vượng và ổn định xã hội. – Quản lý nước công bằng và bền vững góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. – Cân bằng nhu cầu về nước là thước đo của sự phát triển. – An ninh nguồn nước là nền tảng của hòa bình và thịnh vượng cho mọi quốc gia. – Bảo vệ nguồn nước là bảo vệ chính cuộc sống chúng ta. – Nếu tất cả chúng ta cùng chia sẻ, ai cùng sẽ có cơ hội sử dụng nước.
Nguồn: dwrm.gov.vn
|
|