Tàu thuyền chờ di chuyển qua kênh đào Panama khi lệnh giới hạn số lượng tàu thuyền được áp dụng do tình trạng cạn nước, ngày 10/9/2023. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Ngày 8/7, Cơ quan Quản lý Kênh đào Panama (ACP) công bố kế hoạch đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD xây dựng hồ chứa nước mới nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nước ngọt cho người dân, cũng như cho huyết mạch đường thủy Á-Âu vốn đang phải đối mặt tình trạng thiếu nước do hạn hán kéo dài, buộc phải giảm dần lượng tàu thuyền lưu thông qua lại trong những tháng gần đây.
Phóng viên TTXVN tại Mỹ Latinh dẫn phát biểu của Giám đốc ACP Ricaurte Vásquez tại cuộc họp báo cùng ngày cho biết ACP đưa ra tuyên bố trên sau khi có phán quyết của Tòa án Tối cao ủng hộ kế hoạch này. Dự kiến, công trình sẽ hoàn thiện sau 6 năm. Trong tổng số tiền trên, ACP sẽ dành 1,2 tỷ USD đầu tư xây dựng hồ chứa nước đa năng tại sông Inido nằm ở phía Tây kênh đào.
Tàu thuyền chờ di chuyển qua kênh đào Panama khi lệnh giới hạn số lượng tàu thuyền được áp dụng do tình trạng cạn nước, ngày 10/9/2023. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Nước từ hồ chứa này sẽ bổ sung cho Gatun – hồ nhân tạo có diện tích khổng lồ không chỉ cung cấp nước cho kênh đào mà còn cho 50% dân số của quốc gia 4,2 triệu dân này. Trong khi đó, khoản tiền còn lại 400 triệu USD sẽ để hỗ trợ cộng đồng dân cư và hơn 500 gia đình bị ảnh hưởng trực tiếp trong khu vực. Theo thống kê của ACP, lưu vực sông Indio có diện tích 580 km2, chạy qua 3 tỉnh Coclé, Colón và Panamá Oeste, cùng 3 huyện, 11 thị trấn và 228 khu dân cư.
Khánh thành từ năm 1914, kênh đào Panama là tuyến đường thủy nhân tạo dài 82 km nối Đại Tây Dương với Thái Bình Dương. Kênh đào này có vai trò quan trọng đối với việc vận chuyển hàng hóa tiêu dùng từ châu Á đến châu Mỹ, với lượng container qua đây chiếm khoảng 40% tổng lượng container vận chuyển từ Đông Bắc Á đến Bờ Đông của Mỹ. Việc di chuyển qua kênh đào Panama cũng giúp tiết kiệm thời gian cho các hoạt động thông thương từ Mỹ đến châu Á.
Nguồn tin: Phương Lan (TTXVN)
|
(TN&MT) - Ngày 15/7, tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tổ chức Hội thảo tham vấn lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh chủ trì Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà; đại diện Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục thủy lợi các tỉnh: Phú Yên, Gia Lai, Đắk Lắk; đại diện các công ty thủy điện lớn trên lưu vực sông Ba.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu tại Hội thảo, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 và Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn 2050, Bộ TN&MT đã giao Cục Quản lý tài nguyên nước tổ chức lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.
Trên cơ sở này, Hội thảo tham vấn được tổ chức hôm nay nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện các vấn đề về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Ba; đồng thời, lấy ý kiến các địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan về giải pháp, phương hướng giải quyết các vấn đề về tài nguyên nước trên lưu vực Sông Ba.
Quang cảnh Hội thảo
Tại Hội thảo, giới thiệu chung về khung Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Ba và các quan điểm, định hướng trong quy hoạch, ông Lương Quang Phục - Phó Giám đốc Trung tâm Thẩm định và Kiểm định tài nguyên nước, Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, lưu vực sông Ba là một trong 9 lưu vực sông lớn ở Việt Nam, thuộc địa phận của các tỉnh: Gia Lai, Đăk Lăk, Phú Yên và một phần nhỏ thuộc Bình Định. Với diện tích lưu vực là 13.417 km², lưu vực sông Ba có tiềm năng rất lớn về nông lâm nghiệp, thủy sản với hơn 40km bờ biển nơi cửa ra của sông Ba là điều kiện để phát triển đánh bắt thủy hải sản xa bờ.
Ngoài ra, Lưu vực còn có nguồn thủy năng khá lớn, có nhiều vị trí xây dựng thủy điện vừa và lớn. Hiện tại phần lớn nước sử dụng lấy từ nguồn nước mặt các sông hồ. Nước dưới đất sử dụng còn ít so với nguồn nước mặt, chủ yếu cho sinh hoạt và một phần để tưới cho cây công nghiệp như cà phê ở trung thượng du lưu vực.
Ông Lương Quang Phục cũng cho biết, cũng như nhiều lưu vực sông khác tại Việt Nam, Lưu vực sông Ba đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước, cụ thể: Dòng chảy trên lưu vực sông Ba có sự biến động rất lớn theo không gian và biến đổi rất rõ rệt theo thời gian thể hiện qua sự biến động của mùa dòng chảy và dạng phân phối dòng chảy theo tháng trên các khu vực khác nhau của lưu vực sông; Sự phát triển kinh tế và dân số gia tăng kéo theo nhu cầu về năng lượng, tài nguyên thiên nhiên nói chung và nguồn nước nói riêng cũng tăng theo.
Bên cạnh đó, hiện tại chế độ dòng chảy tự nhiên trên sông Ba đã bị biến đổi rất mạnh mẽ do các hoạt động khai thác sử dụng của con người do trên lưu vực đã xây dựng các công trình hồ chứa thủy điện lớn, công trình thủy lợi nhỏ là các hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, nhỏ trên các sông suối trung và thượng lưu của lưu vực. Việc vận hành tích nước và xả nước của các công trình trên đã làm biến đổi mạnh mẽ chế độ dòng chảy của sông nhất là dòng chảy trong mùa cạn ở khu vực hạ lưu sông Ba.
Theo ông Lương Quang Phục, so với các sông ở nước ta, chế độ dòng chảy của sông Ba thuộc loại chế độ dòng chảy của sông bị điều tiết mạnh. Biến đổi chế độ dòng chảy của sông Ba hiện tại đang ngày càng có xu thế diễn biến bất lợi cho sử dụng nước, nhất là ở khu vực hạ lưu, hậu quả của việc khai thác sử dụng chưa hợp lý của con người.
Cùng với đó là các vấn đề mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề ảnh hưởng của biến đối khí hậu, thiên tai; vấn đề quản lý tài nguyên nước;... cũng đang làm gia tăng những thách thức liên quan đến nguồn nước trên lưu vực sông Ba.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho biết, ngày 23/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 182/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2014-2020 với mục tiêu: “Bảo đảm quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp, toàn diện và hiệu quả cao nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia cho trước mắt và lâu dài, góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh trước diễn biến của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự suy giảm của nguồn nước”.
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch là: “Xây dựng quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của các tỉnh, thành phố".
Để có cơ sở triển khai Lập quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba đúng trọng tâm và hiệu quả, nhằm giải quyết tổng thể các vấn đề nêu trên, theo ông Ngô Mạnh Hà, việc thực hiện lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là rất cần thiết. Quy hoạch làm cơ sở điều chỉnh và định hướng cho công tác quản lý khai thác, sử dụng nước và bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông Ba trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực.
Theo đó, Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông Ba được lập bảo đảm theo các nguyên tắc như sau: Bảo đảm tính toàn diện của nước mặt với nước dưới đất, khai thác, sử dụng tài nguyên nước với bảo vệ, phát triển nguồn nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra; Bảo đảm phân bổ hài hòa lợi ích sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực, giữa thượng lưu và hạ lưu; bảo đảm an ninh nguồn nước; Bảo đảm là cơ sở cho việc lập các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành khác có nội dung khai thác, sử dụng tài nguyên nước, kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, kế hoạch bảo vệ nước dưới đất và điều hòa, phân phối tài nguyên nước;...
Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ bao gồm những nội dung chính như sau: Phân tích, đánh giá hiện trạng tự nhiên, kinh tế - xã hội và định hướng phát triển có liên quan; Dự báo xu thế biến động và các vấn đề về tài nguyên nước cần giải quyết trong kỳ quy hoạch; Quan điểm, mục tiêu của quy hoạch; Định hướng điều hòa, phân phối, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống khắc phục tác hại do nước gây ra và giải pháp, kinh phí, kế hoạch thực hiện.
Các đại biểu tham luận, đóng góp ý kiến tại Hội thảo
Tại Hội thảo, đại diện các Sở, ngành, chuyên gia đã phát biểu ý kiến, thảo luận làm rõ các vấn đề mà lưu vực sông Ba đang gặp phải và đề xuất giải pháp để có thể đưa vào trong Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm đảm bảo các yêu cầu về quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả và phân bổ hài hòa lợi ích sử dụng nước giữa các địa phương, giữa vùng thượng lưu và hạ lưu trong thời kỳ quy hoạch.
Trong đó, các đại biểu đã tập trung thảo luận, chia sẻ về các khó khăn, mức độ căng thẳng về nguồn cung cấp nước cho các mục đích sử dụng tại các địa phương/vùng, tiểu vùng và hạ lưu các công trình hồ chứa thủy lợi, thủy điện; các vấn đề mâu thuẫn, phát sinh trong quá trình vận hành, trong hoạt động khai thác, sử dụng nước; nguyên nhân và giải pháp khắc phục; các vấn đề tồn tại đối với việc sử dụng nước hạ du sau khi công trình thủy điện An Khê – Ka Nak chuyển nước; vấn đề tích nước cuối mùa lũ của các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Ba, giải pháp phối hợp, vận hành, điều tiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước; …
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng thảo luận chuyên sâu đối với các vấn đề trong bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông Ba và các vấn đề trong phòng, chống tác hại do nước gây ra, đặc biệt là các giải pháp tại các khu vực thường xuyên xảy ra tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; khu vực và yêu cầu bảo vệ nguồn nước; vấn đề công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt và các biện pháp bảo vệ chất lượng nước sinh hoạt…
Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn
|
Ảnh minh họa
Thừa ủy quyền của Bộ trưởng, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh vừa ký công văn số 4389/BTNMT-TNN gửi Tập đoàn điện lực Việt Nam về việc ý kiến đối với đề xuất phương án vận hành linh hoạt các hồ chứa trên lưu vực sông Hồng.
Công văn nêu, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được đề nghị của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) về đề xuất “Phương án vận hành linh hoạt hồ chứa đảm bảo vận hành an toàn hạ du và khai thác hiệu quả tài nguyên nước trên cơ sở năng lực dự báo khí tượng, thủy văn trên lưu vực sông Hồng” tại Tờ trình số 3134/TTr-EVN ngày 03/6/2024, trong đó EVN đề nghị điều chỉnh 02 nội dung trong mùa lũ của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 740/QĐ-TTg ngày 17/6/2019 (sau đây gọi là Quy trình 740) gồm: phân kỳ thời kỳ vận hành mùa lũ và thay đổi dung tích phòng lũ theo hướng điều chỉnh tăng mực nước cao nhất trước lũ (MNTL), bổ sung mực nước đón lũ (MNĐL) đối với các hồ chứa được quy định dung tích phòng lũ trong Quy trình 740.
Để có đầy đủ căn cứ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Văn bản số 3623/BTNMT-TNN ngày 05/6/2024 gửi lấy ý kiến các Bộ ngành, đơn vị, địa phương có liên quan đối với đề xuất phương án nêu trên. Trên cơ sở ý kiến góp ý, Bộ Tài nguyên và Môi trường thấy rằng còn nhiều ý kiến không thống nhất hoặc có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung với phương án đề xuất của EVN, cụ thể như sau:
Một là, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng việc đề xuất điều chỉnh thời kỳ lũ chính vụ là không phù hợp. Đồng thời, không đồng ý về phương thức vận hành linh hoạt đối với các hồ chứa do không đảm bảo phần dung tích phòng lũ theo quy định của pháp luật (tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 04/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ thực hiện bãi bỏ việc sử dụng các khu phân lũ, làm chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng đã quy định: “Dành dung tích phòng lũ của các hồ để điều tiết, cắt giảm lũ cho hạ du: hồ Sơn La và hồ Hòa Bình trên sông Đà là 7 tỷ m3 , hồ Tuyên Quang là 1 tỷ m3 , hồ Thác Bà là 450 triệu m3 ”.
Hai là, Bộ Công Thương đề nghị đánh giá chi tiết việc thực hiện Quy trình 740; phối hợp với Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia đánh giá tính chính xác và chất lượng trong công tác dự báo những năm gần đây; bổ sung đánh giá tác động của việc xây các nhà máy thủy điện, hồ chứa phía Trung Quốc ảnh hưởng đến lưu lượng nước về hằng năm để làm cơ sở tính toán, đề xuất.
Ba là, một số địa phương cũng đề nghị EVN cần phải rà soát nghiên cứu phương án đề xuất để đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn phòng, chống lũ, các yêu cầu kỹ thuật liên quan khác theo quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai, không gia tăng dòng chảy đột biến về hạ du, đảm bảo an toàn đến tính mạng và tài sản của người dân phía hạ du.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường thấy rằng, nội dung đề xuất chưa làm rõ được tính khả thi của phương án đưa mực nước hồ từ MNTL về MNĐL và việc tính toán lựa chọn MNTL và nội dung điều khoản quy định vận hành chưa làm rõ được thời gian vận hành hạ mực nước hồ để đảm bảo an toàn cho hạ du, còn mâu thuẫn giữa quy định về việc mực nước được phép cắt lũ và MNTL (như trước ngày 26/6 là thời kỳ cắt lũ tiểu mãn, theo quy định của dự thảo Quy trình đề xuất sửa đổi, hồ Sơn La chỉ được sử dụng dung tích đến cao trình 205m, tuy nhiên lại quy định MNTL của hồ Sơn La trong thời kỳ này là 207m).
Vì vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị Tập đoàn điện lực Việt Nam nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng, đề xuất lại phương án vận hành linh hoạt các hồ chứa trên lưu vực sông Hồng để đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, tuân thủ các quy định của pháp luật, khai thác hiệu quả tài nguyên nước và đảm bảo an toàn phòng lũ cho hạ du. Trong thời gian phương án đề xuất nêu trên chưa được phê duyệt, đề nghị Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ đạo các chủ hồ nghiêm túc vận hành điều tiết nước theo đúng các quy định của Quy trình 740.
Chi tiết công văn số 4389/BTNMT-TNN xem Tại đây
Nguồn: DWRM
|
Ngày 1/7/2024 đánh dấu một mốc quan trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước khi Luật Tài nguyên nước 2023 chính thức có hiệu lực. Với nhiều nội dung đột phá, Luật Tài nguyên nước được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc khai thác, sử dụng bền vững, đảm bảo an ninh nguồn nước cho hiện tại và tương lai, là quyết sách lớn để giữ “mạch nguồn” của sự sống.
Cơ chế mới trong phân bổ và quản lý nguồn nước
Luật Tài nguyên nước 2023 gồm 10 Chương và 86 Điều. Với rất nhiều điểm mới, Luật đang nhận được kỳ vọng lớn từ dư luận và giới chuyên gia về một “cuộc cách mạng” trong chính sách quản lý, sử dụng nguồn nước - một trong những loại tài nguyên đặc biệt quý giá của nhân loại.
Theo các chuyên gia đánh giá, Luật mới thể hiện sự đổi mới tư duy một cách mạnh mẽ. Đầu tiên phải kể đến việc Luật quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, điều hoà, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra. Đồng thời quy định rõ “quản cái gì, quản như thế nào và ai quản”. Theo đó, đã quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý tài nguyên nước.
Luật quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, điều hoà, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra
Đáng chú ý, một trong những nguyên tắc cốt lõi của Luật là tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu; phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, nguồn nước với trách nhiệm quản lý Nhà nước về quy hoạch, xây dựng, vận hành công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, cấp nước nông thôn... Với nguyên tắc cốt lõi đó, Luật Tài nguyên nước 2023 sẽ cải thiện triệt để công tác quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên nước, bảo đảm việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước một các hiệu quả và bền vững nhất.
Luật còn có nhiều quy định mới, mang tính đột phá như: quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước; quy định về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, quy định về hạch toán tài nguyên nước nhằm tính đúng giá trị của tài nguyên nước trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, các hoạt động đầu tư phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước ưu tiên thực hiện theo hình thức xã hội hóa và chính sách ưu tiên.
Hiện đại hoá, chuyên nghiệp hoá quản lý tài nguyên nước
Đặc biệt, nội dung hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số là một trong những điểm nổi bật của Luật Tài nguyên nước 2023. Nền tảng công nghệ số sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong việc hỗ trợ các cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông.
Hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số
"Chúng ta chỉ mất từ 3 ngày đến 1 tuần để điều hòa được nguồn nước, thay vì mất nhiều thời gian như trước đây. Đây là việc rất khó nhưng nếu chúng ta không hướng tới thì không thể đảm bảo các nhu cầu về nước và an ninh nguồn nước".
Ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước
|
Hiện tại, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các bộ, ngành và địa phương đang đẩy nhanh đầu tư và ứng dụng công nghệ mới để xây dựng hệ thống dữ liệu chung về khí tượng thủy văn, lưu lượng dòng chảy và các hồ chứa. Các hồ chứa sẽ được điều tiết tích nước hoặc xả nước theo thời gian thực, thay vì theo mùa vụ, nhằm khắc phục mâu thuẫn và lãng phí giữa các nhu cầu khai thác nước cho thủy điện, thủy lợi và nước sạch trên cùng một dòng sông. Hướng tới việc nâng cao giá trị sử dụng nước lên mức trung bình của thế giới, thay vì chỉ bằng khoảng 1/8 như hiện nay.
Khát vọng làm sống lại các dòng sông chết
Một nội dung không thể không nhắc đến trong Luật Tài nguyên nước 2023 là khát vọng làm sống lại các “dòng sông chết” ở nước ta. Đây là vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm trong thời gian qua, nhất là đối với người dân Thủ đô, nơi nhiều con sông đang “chết dần, chết mòn” vì ô nhiễm và nhiều nguyên nhân khác.
Đặt ra “khát vọng” phục hồi các “dòng sông chết”, Luật Tài nguyên nước 2023 đã bổ sung nhiều quy định, chính sách liên quan đến phục hồi các dòng sông và để đảm bảo tính khoa học, khả thi đã quy định rõ cơ chế, chính sách về tài chính cho hoạt động phục hồi nguồn nước để có cơ sở huy động, phân bổ nguồn lực phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm.
Luật Tài nguyên nước với nhiều điểm mới nhằm phục hồi các dòng sông "chết"
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; ưu tiên phục hồi các "dòng sông chết" nhằm khôi phục nguồn nước, tạo dòng chảy, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái, trong đó kèm theo chương trình, đề án, dự án ưu tiên làm sống lại các dòng sông.
Trên thực tế, công tác phục hồi các “dòng sông chết” đã và đang được chúng ta từng bước thực hiện trong thời gian qua bằng việc xây dựng các đập dâng để tạo dòng chảy. Điển hình là sông Nhuệ và sông Đáy. Trong thời gian tới, khi Luật Tài nguyên nước 2023 chính thức có hiệu lực, “khát vọng” càng có cơ sở để hiện thực hóa hơn nữa.
Đưa Luật vào cuộc sống
Để Luật đi vào cuộc sống, trong tháng 5/2024, Chính phủ đã liên tiếp ban hành 2 Nghị định hướng dẫn quan trọng. Đó là Nghị định số 53/2024/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước và Nghị định số 54/2024/NĐ-CP quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Đồng thời, Bộ TN&MT ban hành 3 Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật (Thông tư số 03/2024/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước; Thông tư số 04/2024/TT-BTNMT quy định việc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước và thẩm định, nghiệm thu kết quả hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước; Thông tư số 05/2024/TT-BTNMT quy định việc di chuyển, thay đổi vị trí, giải thể trạm quan trắc tài nguyên nước dưới đất).
Với những cố gắng, nỗ lực rất lớn của Bộ TN&MT, đến nay, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước mới đã được hoàn thiện đúng tiến độ, chất lượng, là một trong những Hệ thống pháp luật chuyên ngành được triển khai xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ, bảo đảm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và đặc biệt là Luật Tài nguyên nước, 2 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, 3 Thông tư. Các văn bản này sẽ được triển khai đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả trong thực tế và cùng hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2024.
Để triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước, Bộ TN&MT cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, ngay khi các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật được ban hành, Bộ TN&MT đã có 3 văn bản gửi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị phổ biến văn bản cũng như sẵn sàng triển khai khi các văn bản có hiệu lực thi hành.
Quy định, hướng dẫn đã có song để Luật thực sự được áp dụng, tạo ra thay đổi mạnh mẽ trong công tác quản lý tài nguyên nước, nỗ lực của một Bộ, ngành vẫn chưa đủ mà cần sự chung tay của toàn xã hội.
Theo Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành, để tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ, phải có lộ trình cụ thể, “đi trước một bước”. Chính vì vậy, ngay từ sớm, Bộ TN&MT đã ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 274/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thi hành Luật Tài nguyên nước 2023. Trong đó, hoạt động đầu tiên để tổ chức thi hành phải kể đến là việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung, chính sách mới của Luật và văn bản hướng dẫn thi hành đến các cán bộ quản lý, người dân, doanh nghiệp nhằm đưa các quy định của pháp luật tài nguyên nước mới đi vào cuộc sống. Song song với đó, là tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước; tuyên truyền nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người dân trong tuân thủ quy định, pháp luật về tài nguyên nước.
Bộ TN&MT tổ chức Hội nghị tuyên truyền Luật Tài nguyên nước 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành tại TP Hải Phòng
Cùng với đó, để phù hợp với Luật mới, Bộ TN&MT cũng phân công các đơn vị rà soát các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật về tài nguyên nước; quy trình kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật về tài nguyên nước để hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước; Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Tài nguyên nước. Trong đó, Bộ giao Cục Quản lý tài nguyên nước chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan, xây dựng, hoàn thiện hồ sơ Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước trình Bộ xem xét, trình Chính phủ trong tháng 12 năm 2024.
Một trong những đột phá của Luật nằm ở việc cải cách hành chính. Vì vậy, để các cải cách thực sự tạo ra các chuyển biến đột phá, Thứ trưởng Lê Công Thành cho rằng, cần nâng cao trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức trong giải quyết thủ tục hành chính về tài nguyên nước, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý thủ tục hành chính về tài nguyên nước.
Với việc ban hành và chuẩn bị kỹ lưỡng thực thi các quy định mới của Luật Tài nguyên nước cũng như các nghị định hướng dẫn thi hành, chắc chắn thời gian tới sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực trong quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia.
Nguồn: botainguyenmoitruong.vn
|
(TN&MT) - Hạn hán và lũ lụt ở miền Nam châu Phi xuất phát từ El Nino đã khiến hàng triệu người mất an ninh lương thực. Giám đốc điều hành Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) Cindy McCain đưa ra cảnh báo này trong chuyến thăm gần đây tới Zambia - tâm chấn của cuộc khủng hoảng. Hạn hán nghiêm trọng đã phá hủy mùa màng ở những khu vực có 70% dân số sống phụ thuộc vào nông nghiệp để tồn tại.
Tình trạng hạn hán ở Zambia đã dẫn đến mất mùa, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Ảnh: UNICEF/ Karin Schermbrucker
Sau khi trò chuyện với các gia đình nông dân ở vùng nông thôn Zambia, Giám đốc điều hành WFP Cindy McCain cho biết những gì bà chứng kiến vừa đáng báo động vừa đau lòng. “Tôi đã gặp những người nông dân thường có thu nhập từ trồng trọt đủ để nuôi sống gia đình và cộng đồng của họ. Tuy nhiên, năm nay họ không thu hoạch được gì", bà McCain cho biết thêm.
"Giờ đây, chúng ta hãy tưởng tượng một kịch bản tương tự xảy ra với hàng triệu người trên khắp miền Nam châu Phi và chúng ta gặp phải một thảm họa nhân đạo”, bà McCain nhấn mạnh.
El Nino gây tác động lớn
Mặc dù hiện tượng thời tiết El Nino mới nhất sắp kết thúc nhưng hạn hán do chu kỳ thay đổi thời tiết gây ra sẽ để lại hậu quả trong nhiều tháng tới.
Nhiệt độ đã tăng lên đáng kể dẫn đến tháng 2 khô hạn nhất trong nhiều thập kỷ ở khu vực, khiến lượng mưa cần thiết cho sự phát triển của cây trồng giảm 20%.
Theo WFP, Zambia, Zimbabwe và Malawi bị ảnh hưởng nặng nề nhất và tất cả những quốc gia này đều tuyên bố thảm họa hạn hán. Những quốc gia này đối mặt với tình trạng mất mùa trên diện rộng, với khoảng 40 đến 80% sản lượng ngô bị thiệt hại.
Tại Hội nghị thượng đỉnh bất thường của những người đứng đầu nhà nước và chính phủ Cộng đồng Phát triển miền Nam châu Phi (SADC) về cuộc khủng hoảng hiện nay, các nhà lãnh đạo đã thông báo rằng 61 triệu người bị ảnh hưởng bởi El Nino. Họ đưa ra lời kêu gọi nhân đạo trị giá 5,5 tỷ USD để bổ sung nguồn lực của chính các quốc gia thành viên bị ảnh hưởng, đồng thời kêu gọi hỗ trợ để đáp ứng các nhu cầu nhân đạo cấp bách.
SADC đang kêu gọi hỗ trợ để đáp ứng những nhu cầu nhân đạo này. Bà McCain cũng lặp lại lời kêu gọi ủng hộ.
“Tôi đang yêu cầu cộng đồng quốc tế tham gia cùng chúng tôi và nỗ lực ngay bây giờ. Chúng ta không thể yêu cầu hàng triệu người chờ đợi đến mùa thu hoạch tiếp theo - một năm nữa - để có nguồn thực phẩm phục vụ các bữa ăn hằng ngày của họ. Những gia đình này cần sự hỗ trợ của chúng ta ngay hôm nay và chúng ta giúp xây dựng một tương lai kiên cường hơn”, Giám đốc điều hành WFP nhấn mạnh.
Cần thêm nguồn kinh phí
Hạn hán và lũ lụt xảy ra vào thời điểm tình trạng mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng đã ở mức báo động và các hoạt động nhân đạo bị đình trệ do thiếu kinh phí. Mặc dù WFP đã ứng phó với cuộc khủng hoảng này nhưng vẫn cần 409 triệu USD cho 6 tháng viện trợ để mang lại lợi ích cho 4,8 triệu người ở Malawi, Zambia và Zimbabwe.
Những hiện tượng khí hậu cực đoan là lời nhắc nhở về nhu cầu cấp thiết phải tăng cường đầu tư vào các hoạt động xây dựng khả năng phục hồi, đặc biệt là ở miền Nam châu Phi, nơi các cú sốc khí hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sinh kế.
Để giúp cộng đồng chuẩn bị ứng phó với thảm họa khí hậu trước khi chúng xảy ra, WFP đã làm việc với các chính phủ và đối tác để đưa ra các giải pháp. Vào tháng 8/2023, WFP đã huy động hơn 14 triệu USD tài chính dự kiến để hỗ trợ hơn 1,2 triệu người có khả năng bị ảnh hưởng bởi El Nino.
Chương trình Lương thực Thế giới cũng đã hỗ trợ các cộng đồng ở Lesotho, Madagascar, Mozambique và Zimbabwe bằng cách cung cấp các cảnh báo sớm về rủi ro thời tiết, chuyển tiền mặt dự kiến, hạt giống chịu hạn, đào tạo nông nghiệp và cải thiện nguồn nước.
Ngoài ra, WFP cũng đang làm việc với các chính phủ để bảo vệ các cộng đồng trước hậu quả của các cú sốc khí hậu. Trong vài tuần nữa, WFP sẽ bắt đầu giải ngân gần 10 triệu USD tiền bảo hiểm trong 6 tháng tới cho gần 280.000 người bị ảnh hưởng. Điều này sẽ giúp các hộ gia đình dễ bị tổn thương ứng phó với tác động của hạn hán và khôi phục sinh kế một cách ổn định.
Nguồn: Tổng hợp từ UN News
|
|