Tin trong nước

Quy định mới về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

(TN&MT) - Để triển khai hiệu quả các quy định về việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, đồng thời khuyến khích tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, ngày 16/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định 54/2024/NĐ-CP quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (Nghị định 54). Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Đây được coi là giải pháp nhằm hạn chế thất thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước hiện nay.

Khai thác nước phục vụ cho sinh hoạt phải nộp tiền

Theo quy định của Nghị định 54, tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước thuộc trường hợp phải cấp phép khai thác nước mặt, nước dưới đất phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp, cụ thể: Khai thác nước mặt để phát điện có mục đích thương mại; Khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ hoạt động sản xuất (bao gồm cả nước làm mát máy, thiết bị, tạo hơi, gia nhiệt), kinh doanh, dịch vụ, cấp cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cấp cho sinh hoạt.

8b.jpgCác trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch... sẽ phải thực hiện đăng ký cấp phép tài nguyên nước

Chia sẻ về những điểm mới của Nghị định 54 so với các quy định trước đây, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho biết, Nghị định 54 đã bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, bao gồm khai thác nước mặt để phát điện cho mục đích thương mại và khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước cho nông nghiệp và cấp cho sinh hoạt.

Đối tượng được miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là các trường hợp cấp nước cho sinh hoạt của người dân ở các khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nhằm tạo điều kiện cho bà con ở những vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, còn có hạng mục công trình khai thác tài nguyên nước đã được Chính phủ bảo lãnh và trường hợp các công trình khai thác, sử dụng nước trong thời gian bị hư hỏng và sự cố bất khả kháng dẫn đến không thể tiếp tục khai thác nước, buộc phải dừng việc khai thác.

Nghị định cũng quy định đối tượng được giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, bao gồm 4 trường hợp: Các công trình khai thác nước phải cắt, giảm lượng nước khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu cắt giảm; các công trình khai thác, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, tiết kiệm nước; hồ chứa đã vận hành phải điều chỉnh, bổ sung dung tích phòng lũ cho hạ du so với nhiệm vụ của hồ chứa đã được phê duyệt và việc khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.

Đơn giản hóa thủ tục hành chính kê khai, đăng ký, cấp phép

Theo ông Ngô Mạnh Hà, Nghị định 54 được Bộ TN&MT xây dựng theo hướng các quy định về thủ tục hành chính đảm bảo rõ ràng, cụ thể, minh bạch; đơn giản hoá thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bên cạnh đó, Nghị định quy định cụ thể các trường hợp đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khả thi, thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước trong thực thi quy định pháp luật về tài nguyên nước, đồng thời nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.

Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị định là việc đơn giản hoá thủ tục kê khai, đăng ký, cấp phép. Theo đó, các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ sinh hoạt sẽ phải thực hiện kê khai, đăng kí, cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Cùng với đó, các công trình khai thác nước dưới đất phục vụ một số mục đích có quy mô nhỏ; công trình đập ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch chỉ có mục đích ngăn mặn, tạo nguồn, chống ngập, tạo cảnh quan; các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch... sẽ phải thực hiện đăng ký thay vì phải lập hồ sơ đề nghị cấp phép như trước đây.

Ngoài ra, Nghị định cũng quy định liên quan đến việc tạm dừng có thời hạn hiệu lực của giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác, sử dụng nước. Quyền lợi của tổ chức, cá nhân sẽ được giảm tiền cấp quyền khai thác nước trên cơ sở trừ số tiền tương ứng với số ngày mà họ dừng việc khai thác.

Thẩm quyền cấp phép tài nguyên nước

Đối với thẩm quyền cấp phép tài nguyên nước, Nghị định 54 quy định, Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh phê duyệt, điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép khai thác tài nguyên nước.

8a.png

Cơ quan tiếp nhận và trả kết quả tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (cơ quan tiếp nhận hồ sơ) bao gồm: Văn phòng Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính của Bộ TN&MT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ.

Bộ phận một cửa hoặc Trung tâm Phục vụ hành chính công có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp tỉnh. Trường hợp địa phương chưa thành lập Bộ phận một cửa hoặc Trung tâm Phục vụ hành chính công thì Sở TN&MT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp tỉnh.

Cơ quan thẩm định, quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (cơ quan thẩm định hồ sơ), bao gồm: Cơ quan chuyên môn về tài nguyên nước thuộc Bộ TN&MT có trách nhiệm tổ chức thẩm định và quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ TN&MT.

Sở TN&MT có trách nhiệm tổ chức thẩm định và quản lý hồ sơ, quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Kinh phí chi cho hoạt động thẩm định hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được lấy từ nguồn thu phí khai thác, sử dụng nguồn nước.

Thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

Chia sẻ về quy định thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, bà Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước cho biết, theo Nghị định 54, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được thông báo, nộp sau khi công trình đi vào vận hành và có quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Sau khi nhận được quyết định phê duyệt, điều chỉnh, truy thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, Cục thuế địa phương nơi có công trình khai thác tài nguyên nước ban hành thông báo nộp tiền cấp quyền gửi tổ chức, cá nhân nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Theo quy định tại Nghị định 54, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được nộp hằng năm theo số tiền được ghi trong quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Căn cứ khả năng của mình, chủ giấy phép lựa chọn phương thức nộp tiền một lần trong năm, hai lần trong năm hoặc nộp một lần cho cả thời gian được phê duyệt. Việc nộp tiền một lần cho cả thời gian phê duyệt tiền cấp quyền do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tiền cấp quyền quyết định trên cơ sở đề xuất của chủ giấy phép và được quy định trong quyết định phê duyệt tiền cấp quyền.

Đặc biệt, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là một loại chi phí được xác định trong giá thành sản xuất của chủ giấy phép.

Ông Lê Bá Phúc - Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên - Huế:

Luật Tài nguyên nước 2023 giúp địa phương quản lý chặt chẽ, khoa học, tránh thất thoát tài nguyên nước

9abp.jpgÔng Lê Bá Phúc -
Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên - Huế

Nguồn tài nguyên nước của tỉnh khá phong phú, nhất là tài nguyên nước mặt của hệ thống sông Hương và tài nguyên nước dưới đất được phân bố tương đối đều trên địa bàn toàn tỉnh.

Thời gian qua, tỉnh đã cấp 3 giấy phép thăm dò nước dưới đất; 7 giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất và 16 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt. Sở TN&MT đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền hơn 6,8 tỷ đồng.

Luật Tài nguyên nước 2023 và Nghị định 54/2024/NĐ-CP đã thể chế hóa được quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, vì thế, tỉnh kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc khai thác, sử dụng bền vững, đảm bảo an ninh nguồn nước cho hiện tại và tương lai. Trong đó, tỉnh đang phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới đã và đang xây dựng, hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng ngày càng mở rộng. Kỳ vọng Luật Tài nguyên nước sẽ hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với dân số ngày càng tăng của tỉnh, giải quyết vấn đề thiếu nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất...

Thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo cơ quan chuyên môn thẩm định, quản lý hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác tài nguyên nước, thăm dò nước dưới đất, hành nghề khoan nước dưới đất và hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Kiểm tra, thanh tra, đôn đốc việc chấp hành pháp luật về thực hiện quy định của giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất, giấy phép khai thác tài nguyên nước, giấy phép thăm dò nước dưới đất, kê khai, đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước, dịch vụ về tài nguyên nước... Cập nhật thông tin, dữ liệu của giấy phép thăm dò, khai thác nước, giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước quốc gia.

Mặt khác, cải cách quy trình về thủ tục hành chính để có thể ứng dụng tối đa công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến, hướng tới cung cấp toàn bộ thông tin về thủ tục hành chính trên môi trường mạng. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn phối hợp với UBND cấp huyện, UBND cấp xã tổ chức việc thực hiện phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai trên ứng dụng kê khai, đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc địa bàn nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả, nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.

Ông Phạm Nam Huân - Phó Giám đốc Sở TN&MT TP. Cần Thơ:

Chú trọng cấp phép khai thác tài nguyên nước

8bhuan.jpgÔng Phạm Nam Huân -
Phó Giám đốc Sở TN&MT TP. Cần Thơ

Thời gian qua, TP. Cần Thơ đã triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, cấp phép khai thác và sử dụng tài nguyên nước, phục vụ mục tiêu phát triển kính tế - xã hội của thành phố.

Cụ thể, TP. Cần Thơ hiện đang tiếp tục triển khai thực hiện các dự án, đề án lập danh mục các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ, các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; lập bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; khoanh định vùng phải đăng ký khai thác nước dưới đất; xây dựng hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước; đồng thời, siết chặt công tác cấp, gia hạn giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước mặt, nước dưới đất; không cấp mới, gia hạn các giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước dưới dất ở những nơi có hệ thống nước máy đi qua đảm bảo cung cấp đủ về số lượng và chất lượng. Từ đầu năm 2024 đến nay, TP. Cần Thơ đã cấp 4 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt tổng lưu lượng 22.680 m3/ngày đêm; gia hạn 1 giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất lưu lượng 500 m3/ngày đêm; phê duyệt 9 hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Có thể nói tài nguyên nước có vai trò, vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như của quốc gia và đã được luật hóa trong Luật Tài nguyên nước 2012 và gần đây nhất là Luật Tài nguyên nước 2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Luật sẽ giúp các địa phương khắc phục một số khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý, cấp phép khai thác và sử dụng tài nguyên nước; huy động nguồn lực để hoàn thiện, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính ngành nước theo hướng quản trị thông minh trên nền tảng công nghệ số; thu hút nguồn lực xã hội đầu tư phát triển ngành nước và tái sử dụng nguồn nước; quyền lợi và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân từ hoạt động cải tạo phục hồi nguồn nước, bảo vệ, phòng chống tác hại do nước gây ra; đặc biệt, các quy định rõ ràng, dễ hiểu của Luật Tài nguyên nước 2023 sẽ mang tính khả thi cao trong quá trình triển khai thực hiện Luật; đồng thời, thúc đẩy đầu tư, xã hội hóa đi đôi với tăng cường bảo vệ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn thành phố.

Ông Lê Sỹ Nghiêm - Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa:

Quản lý tài nguyên nước hiệu quả

9dnghiem.jpgÔng Lê Sỹ Nghiêm -
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa

Hàng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa đã tổ chức triển khai Đo triều - mặn trên hệ thống sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Kết quả đo triều mặn được cập nhật gửi đến UBND cấp huyện và các sở ban ngành kịp thời để chỉ đạo các đơn vị thủy nông, các đơn vị khai thác, sử dụng nước vận hành hợp lý các công trình khai thác nước thuộc vùng sông ảnh hưởng của thuỷ triều trên hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Bạng để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong vùng.

Bên cạnh đó Sở cũng thường xuyên tham mưu, thẩm định cấp Giấy phép tài nguyên nước cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, với tổng số giấy phép 334 giấy (183 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất, 91 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới mặt, 52 Giấy phép thăm dò nước dưới đất, 8 Giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất). Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị đang có hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước và Hồ sơ đề nghị cấp phép của các tổ chức cá nhân. Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, đã thực hiện thanh, kiểm tra 355 cuộc; Số tổ chức, cá nhân được thanh, kiểm tra là 537; đã phát hiện 41 trường hợp có hành vi vi phạm hành chính; số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 1.838.000.000 đồng; số lợi bất hợp pháp đã thu hồi là 600.130.00 đồng.

Thực hiện tính tiền cấp quyền khai thác nước theo quy định tại Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; Nghị định số 41/2021/NĐ-CP ngày 30/3/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017, tham mưu cho UBND tỉnh ban hành 370 Quyết định phê duyệt tiền cấp quyền, với số tiền đã phê duyệt 61 tỷ đồng.

Để Luật Tài nguyên nước 2023 đi sâu vào từng địa phương các cấp, Sở cũng đã ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trên bàn tỉnh, tổ chức 2 lớp tập huấn với số lượng khoảng 800 cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tài nguyên và môi trường. Qua đó, giúp cán bộ, công chức, viên chức phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, cấp xã nắm vững, áp dụng và thực hiện tốt các quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường trong quá trình thực thi nhiệm vụ tại cơ sở.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La:

Tăng thu ngân sách từ tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

9hung.jpgÔng Nguyễn Mạnh Hùng -
Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La

Sơn La là địa phương có tiềm năng về tài nguyên nước với 35 suối lớn, 2 sông lớn là sông Đà dài 280km, sông Mã dài 90km với 17 phụ lưu chảy qua. Từ một tỉnh "trắng" giấy phép, đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có khoảng 175 giấy phép khai thác tài nguyên nước còn hiệu lực. Đã ban hành 81 quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền trên 5,8 tỷ đồng.

Tuy nhiên, quá trình triển khai Luật Tài nguyên nước 2012, công tác tính tiền cấp quyền khai thác còn một số điểm hạn chế. Theo cách tính cũ, nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho mục đích sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp không thuộc đối tượng nộp tiền cấp quyền; đồng thời, mức thu theo quy định với một số chủ giấy phép rất thấp, khoảng 5 - 10 triệu đồng/1 giấy phép thời hạn 5 - 7 năm. Ngoài ra, chưa có chế tài cụ thể với việc khai thác tài nguyên nước của hộ gia đình.

Luật Tài nguyên nước 2023 và Nghị định 54/2024/NĐ-CP đã gỡ khó cho các địa phương nói chung, Sơn La nói riêng trong công tác đăng ký, cấp phép, tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Đã bổ sung công tác kê khai tài nguyên nước với việc khai thác quy mô hộ gia đình, cá nhân. Đặc biệt, đã quy định đối tượng, mức tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho mục đích sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp.

Trước thời điểm Luật Tài nguyên nước có hiệu lực thi hành, Sở TN&MT đã trình UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật; giao rõ nhiệm vụ cho các sở ngành, các địa phương tập trung tuyên truyền, phổ biến Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy định chi tiết.

Hiện nay, Sở TN&MT đang rà soát các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ cho phù hợp; trình UBND tỉnh điều chỉnh nội dung liên quan đến vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; tăng cường tuyên truyền, phổ biến đến 4 nhóm đối tượng liên quan đến khai thác tài nguyên nước, gồm: công trình thủy điện, thủy lợi, các công trình cấp nước tập trung và các chủ giấy phép khác.

Cùng với đó, tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước để quản lý các hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, hành nghề khoan nước dưới đất. Góp phần khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên nước theo hướng bền vững.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Quy định mới về tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

 

Nâng cao nhận thức về Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 và các văn bản quy định thi hành phục vụ công tác vận hành, khai thác công trình thủy điện

Ngày 19/8, tại thành phố Đà Nẵng, Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã phối hợp với Cục kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp (Bộ Công Thương), và Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức Hội thảo “Tìm hiểu Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 (Luật tài nguyên nước 2023) và các văn bản quy định thi hành phục vụ công tác vận hành, khai thác công trình thủy điện.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, hiện nay, quy mô hệ thống điện Việt Nam đứng đầu khu vực ASEAN về công suất nguồn điện, với tổng công suất đặt toàn hệ thống đạt 80.555MW, trong đó tổng công suất thủy điện là 22.872 MW, chiếm tỷ trọng 28,4%.
Các công trình thuỷ điện có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong công tác phòng, chống lũ cho hạ du, tưới tiêu phục vụ nhu cầu của người dân và phát điện đảm bảo an ninh cung cấp điện. Vì vậy, việc vận hành các công trình thuỷ điện an toàn, hiệu quả, tối ưu nguồn nước, đúng quy trình, quy định của pháp luật là vô cùng quan trọng, đây cũng trách nhiệm và nghĩa vụ của EVN nói chung và các đơn vị thành viên nói riêng, được lãnh đạo EVN quan triệt, chấp hành nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương.

                                                           Ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo.

 Theo ông Ngô Sơn Hải, Luật Tài nguyên nước năm 2023 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 với mục tiêu quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên nước một cách hiệu quả và bền vững, nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Đây là một trong những luật quan trọng, không chỉ điều chỉnh hoạt động quản lý Nhà nước mà còn là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp, trong đó có các Nhà máy thuỷ điện trong và ngoài EVN về việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.

“Hội thảo ngày hôm nay được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết hệ thống pháp luật mới trong lĩnh vực tài nguyên nước; đồng thời, đây cũng là dịp để các cơ quan quản lý, các chuyên gia giải đáp, hướng dẫn trong quá trình thực thi các chính sách pháp luật về tài nguyên nước cho các đơn vị quản lý, vận hành các công trình thuỷ điện” - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam Ngô Sơn Hải nhấn mạnh.


Lãnh đạo các đơn vị: Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường); Cục kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp (Bộ Công Thương), và Tập đoàn Điện lực Việt Nam tham dự Hội thảo

Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe các báo cáo viên thuộc Cục Quản lý tài nguyên nước trình bày các chuyên đề chính như sau: Giới thiệu luật tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành; Chính sách pháp luật về tài nguyên nước liên quan đến khai thác, sử dụng nước cho thủy điện và nhiệt điện; Điều hòa phân phối nguồn nước, tối ưu hóa vận hành hồ chứa, hướng tới vận hành hồ chứa theo thời gian thực.

Bà Nguyễn Thị Phương, Phó Trưởng phòng Lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Cục Quản lý tài nguyên nước giới thiệu nội dung cơ bản của Luật tài nguyên nước 2023

Giới thiệu nội dung cơ bản của Luật tài nguyên nước 2023, bà Nguyễn Thị Phương, Phó Trưởng phòng Lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội XV, Quốc hội đã thông qua Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 (hiệu lực từ 01/7/2024) đánh dấu một bước tiến rất lớn trong tư duy, cách tiếp cận, thay đổi phương thức quản trị tài nguyên nước, bảo đảm tài nguyên nước được quản lý như tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Luật Tài nguyên nước năm 2023, gồm 10 chương, 86 điều, quy định về quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ nước Việt Nam.
Đáng chú ý, luật đã thể chế hóa được quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước thông qua bốn nhóm chính sách, gồm: Bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước; kinh tế tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra.
Bốn nhóm chính sách được thể hiện xuyên suốt trong Luật Tài nguyên nước năm 2023, đã được cụ thể hóa qua những điểm mới như sau: (1) Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu, phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước; (2) Bảo đảm An ninh nguồn nước quốc gia là kim chỉ nam trong quản lý tài nguyên nước, xây dựng Luật và văn bản quy định chi tiết thi hành; (3) Điều hòa, phân phối tài nguyên nước là một trong những công cụ cốt lõi trong việc quản lý, sử dụng, bảo vệ các nguồn nước hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước; (4) Hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định; (5) Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; (6) Đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh tài nguyên nước, tạo nguồn lực trong được chú trọng trong bối cảnh nguồn lực Nhà nước còn hạn chế; (7) Phục hồi, làm sống lại các “dòng sông chết”; (8) Nước dưới đất được quản lý hiệu quả, bảo đảm công bằng, hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng nước; (9) và một số điểm mới quan trọng khác như: ngưỡng khai thác nước dưới đất; phân vùng chức năng nguồn nước; phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ; lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp,....
Tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Phương cũng giới thiệu và nhấn mạnh những điểm mới của Luật tài nguyên nước 2023 so với những quy định của pháp luật về tài nguyên nước trước đây liên quan đến công tác vận hành, khai thác công trình thủy điện.

Quang cảnh Hội thảo

 Trong đó, tại Chương IV - Điều hòa, phân phối và khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã bổ sung quy định xây dựng kịch bản nguồn nước (khoản 3, Điều 35): Hằng năm, Bộ TN&MT xây dựng và công bố kịch bản nguồn nước trên cơ sở số liệu do các Bộ và địa phương cung cấp. Căn cứ kịch bản nguồn nước, các Bộ, địa phương chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước (khoản 6, Điều 35). Đối với lưu vực sông dự báo xảy ra hạn hán, thiếu nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành, địa phương xây dựng, tổ chức thực hiện phương án điều hòa, phân phối tài nguyên nước (khoản 7, Điều 35); …

Luật tài nguyên nước 2023 cũng quy định rõ hơn về quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa (Điều 38): Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa phải được xây dựng, ban hành hướng tới việc vận hành các hồ chứa theo thời gian thực; quy định trách nhiệm nghiên cứu, đầu tư đồng bộ các giải pháp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm vận hành hồ chứa, liên hồ chứa theo thời gian thực (khoản 4);  Bộ TN&MT lập danh mục các đập, hồ chứa phải vận hành theo quy trình vận hành liên hồ chứa; xây dựng, điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trường hợp các Bộ, UBND tỉnh, tổ chức quản lý, vận hành hồ chứa đề nghị điều chỉnh thì phải xây dựng phương án gửi Bộ TN&MT thẩm định (điểm a, khoản 7, Điều 38); Quy định xây dựng quy chế phối hợp vận hành giữa các đập, hồ chứa (khoản 9, Điều 38);
Bên cạnh đó, Luật tài nguyên nước 2023 cũng bổ sung điều mới quy định chung về khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Điều 41); Bổ sung quy định quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Điều 42). Trong đó, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có quyền được tạm dừng có thời hạn giấy phép khai thác tài nguyên nước; được giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước khi bị cắt giảm lượng nước khai thác hoặc tạm dừng có thời hạn giấy phép. Đồng thời, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có nghĩa vụ cắt, giảm hoặc tăng lượng nước khai thác hoặc điều chỉnh chế độ vận hành, khai thác nước của công trình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tuân thủ hạn ngạch khai thác tài nguyên nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tài nguyên nước quy định;…
Luật tài nguyên nước 2023 cũng quy định, việc đầu tư, xây dựng đập, hồ chứa trên sông, suối phải phù hợp với quy hoạch về tài nguyên nước, quy hoạch tỉnh, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành có nội dung khai thác, sử dụng tài nguyên nước và phải bảo đảm đa mục tiêu, chủ động tích trữ nước, điều hoà, phân phối, phục hồi, phát triển nguồn nước (khoản 1, Điều 50); Việc đầu tư, xây dựng, quản lý, vận hành công trình đập, hồ chứa và quản lý khai thác, sử dụng nguồn nước từ hồ chứa phải bảo đảm an toàn đập, hồ chứa (khoản 2, Điều 50); Việc khai thác, sử dụng nguồn nước từ hồ chứa và các hoạt động trong hành lang bảo vệ nguồn nước phải bảo đảm yêu cầu về bảo vệ, khai thác, sử dụng và phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra; Việc vận hành đập, hồ chứa trên sông, suối còn phải bảo đảm các yêu cầu cắt, giảm lũ cho hạ du, sử dụng nguồn nước tổng hợp, đa mục tiêu, kết hợp cải tạo, phục hồi nguồn nước, tạo cảnh quan và bảo đảm các nguyên tắc theo quy định (khoản 5, Điều 50);
Cùng với đó, Luật tài nguyên nước 2023 cũng có quy định về khuyến khích các tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành đập, hồ chứa thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện, năng lực cung cấp dịch vụ hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa, liên hồ chứa (khoản 7, Điều 50); Quy định việc nghiên cứu, đề xuất phương án sử dụng một phần dung tích phòng lũ trên mực nước dâng bình thường của hồ chứa lớn, quan trọng để nâng cao khả năng cắt, giảm lũ cho hạ du khi xảy ra các tình huống khẩn cấp, bất thường, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định (khoản 8, Điều 50); Bổ sung quy định tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc quan trắc và lắp đặt thiết bị đo đạc được kiểm định, hiệu chuẩn; quy định về di chuyển trạm quan trắc (điểm c, d, khoản 1, Điều 51); bổ sung trách nhiệm cập nhật, kết nối, truyền dữ liệu quan trắc vào Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia để phục vụ giám sát việc khai thác tài nguyên nước (điểm b, khoản 2, Điều 51);…

Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh giải đáp các câu hỏi, tháo gỡ những vướng mắc của các đại biểu tại Hội thảo 

Tại Hội thảo, Lãnh đạo Cục Quản lý tài nguyên nước và lãnh đạo các phòng chuyên môn thuộc Cục cũng đã giải đáp các câu hỏi, tháo gỡ những vướng mắc của các đại biểu trong quá trình triển khai, thực thi Luật tài nguyên nước 2023 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật; đặc biệt là những nội dung liên quan đến khai thác, sử dụng nước cho thủy điện. 

TS Trịnh Quang Toàn giới thiệu chuyên đề "Điều hòa phân phối nguồn nước, tối ưu hóa vận hành hồ chứa, hướng tới vận hành hồ chứa theo thời gian thực"

Đại biểu phát biểu ý kiến tại Hội thảo

Quang cảnh Hội thảo 

Phát biểu ý kiến tại Hội thảo, các đại biểu cũng cho rằng để Luật Tài nguyên nước năm 2023 đi vào cuộc sống, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục, phối hợp với các địa phương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến sâu rộng những điểm mới, quy định mới của luật để góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước; xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia. Đây là nền tảng cơ bản để giúp các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách tại các địa phương có đầy đủ thông tin để ra quyết định điều hòa phân phối nguồn nước trên các lưu vực sông.

Tác giả bài viết: DWRM

Nâng cao nhận thức về Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 và các văn bản quy định thi hành phục vụ công tác vận hành, khai thác công trình thủy điện

 

Phục hồi các dòng sông “chết”: Sẽ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông

Nước sông Nhuệ đen đặc, ô nhiễm nghiêm trọng

Nước sông Nhuệ đen đặc, ô nhiễm nghiêm trọng

Để giải cứu các dòng sông “chết”, Bộ TN&MT đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thành lập 5 Uỷ ban lưu vực sông để gắn trách nhiệm chung của các tỉnh, các bộ, ngành. Các Uỷ ban lưu vực sông này có vai trò điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.

Theo ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai nhiều giải pháp để phục hồi các dòng sông “chết”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phục hồi các dòng sông ô nhiễm một cách đơn lẻ, cục bộ mà chưa có giải pháp tổng thể.
 
Một số phương án phục hồi các dòng sông đã được đặt ra ví dụ như việc đầu tiên cần bắt tay vào thu gom, xử lý triệt để nước thải sinh hoạt từ khu dân cư. Đồng thời thu gom cả nước thải ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp phát sinh từ phân bón, thuốc trừ sâu… Sau đó sẽ đến khâu tạo nguồn dòng chảy cho dòng sông.
 
Để làm được việc này, ông Châu Trần Vĩnh cho rằng, cần phải đề xuất cơ chế, chính sách, thu hút nguồn lực. Bởi vì việc phục hồi dòng sông "thành" hay "bại" chính là cơ chế để vận hành. Việc xây dựng một công trình thu gom, xử lý nước thải, trạm bơm tiếp nước không khó nhưng để duy trì nó thì cần phải có cơ chế rõ ràng cho nhà đầu tư tham gia xử lý, vận hành.

 
Hiện nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đang trình Bộ TN&MT đề án thí điểm phục hồi các dòng sông, bao gồm thu gom, xử lý nước thải. Đề án dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ năm 2025, nếu được thông qua và có đủ nguồn lực thì trong vòng khoảng 5-7 năm sẽ giải quyết được ô nhiễm ở nhiều dòng sông.
 
Theo đó, Đề án thí điểm phục hồi các dòng sông sẽ có hai phương án, một là thí điểm ngay vào kênh thủy lợi Bắc Hưng Hải đang bị ô nhiễm, rồi sau đó triển khai mở rộng ra sông Nhuệ, Đáy và các sông nội đô Hà Nội.
 
Hướng thứ hai sẽ làm chương trình tổng thể trên toàn quốc đó là rà soát, thống kê, lập danh mục nguồn nước bị suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt sau đó trình Thủ tướng Chính phủ.
 
Theo Cục trưởng Châu Trần Vĩnh, hai phương án trên, phương án nào cũng có ưu điểm, nhược điểm và lựa chọn phương án nào sao cho phù hợp để triển khai là trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương nhằm chung tay xử lý nước thải đồng bộ và xử lý dòng chảy lưu thông.
 
Một giải pháp nữa để phục hồi các dòng sông “chết” đó là việc quản lý các dòng sông phải theo lưu vực chứ không thể theo địa bàn hành chính. Vì vậy, Khi Luật Tài nguyên nước 2023 có hiệu lực, Bộ TN&MT đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông gồm: sông Hồng - Thái Bình, sông sông Bắc Trung Bộ, sông Nam Trung Bộ, sông Đông Nam Bộ và sông Mê Công để gắn trách nhiệm chung của các tỉnh và các bộ, ngành.
 
Mỗi một Ủy ban sẽ phụ trách một số lưu vực sông chính, trong đó sông nhánh như sông Nhuệ - sông Đáy sẽ là Tiểu ban nằm trong Ủy ban lưu vực sông. Dự kiến, trong Uỷ ban lưu vực sông có lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương để chỉ đạo đồng bộ, liên tục, vận hành, điều phối liên ngành chứ không còn là trách nhiệm của một ngành, một đơn vị.

 

Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn

Phục hồi các dòng sông “chết”: Sẽ thành lập 5 Ủy ban lưu vực sông

 

Thủy điện Hòa Bình mở cửa xả thứ 4

Hồ chứa thuỷ điện Hoà Bình

Hồ chứa thuỷ điện Hoà Bình

Thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) lệnh giám đốc Công ty Thủy điện Hòa Bình mở tiếp cửa xả đáy thứ 4 thủy điện Hòa Bình vào 11h ngày 6/8.
Bộ trưởng NN&PTNT yêu cầu các địa phương cần theo dõi chặt chẽ diễn biến mưa lũ, an toàn công trình, lưu lượng đến hồ, mực nước thượng, hạ lưu hồ chứa kịp thời báo cáo về bộ trong các trường hợp xảy ra bất thường.
Hồi 7h sáng nay, mực nước thượng lưu hồ Hòa Bình ở cao trình 107,82m, lưu lượng đến hồ 9.241m3/s, lưu lượng xả 7.144m3/s. 
Đến nay, cả 4 hồ trên hệ thống sông Hồng đang vận hành xả lũ. Trong đó, hồ thủy điện Hòa Bình mở 4 cửa xả đáy; hồ thuỷ điện Sơn La mở 3 cửa xả đáy; hồ thuỷ điện Tuyên Quang đang mở 3 cửa xả đáy; hồ thủy điện Thác Bà đang mở 2 cửa xả mặt.

Để đảm bảo an toàn cho công trình và các hoạt động ven sông, Bộ NN&PTNT đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh các tỉnh, thành phố tổ chức thông báo ngay đến các cấp chính quyền, người dân, các tổ chức có hoạt động trên sông, ven sông; cơ sở nuôi trồng thủy sản, phương tiện vận tải thủy; các bến đò ngang, đò dọc. Bên cạnh đó, rà soát, đảm bảo an toàn các công trình đang thi công; các hoạt động khai thác tập kết, trung chuyển cát sỏi biết thông tin xả lũ hồ thủy điện Hòa Bình chủ động các biện pháp phòng tránh đảm bảo an toàn về người, tài sản.
Các địa phương cũng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp với Chủ hồ có giải pháp đảm bảo an toàn đối với người dân hiếu kỳ đến gần khu vực xem xả lũ; báo cáo và đề xuất kịp thời phương án xử lý các tình huống bất thường.
Mực nước lúc 7h sáng nay 6/8 trên một số sông như sau:
Sông Hồng tại trạm Hà Nội là 6,96m; sông Thái Bình tại trạm Phả Lại là 2,80m.
Sông Gâm tại Chiêm Hoá là 37,85m, trên BĐ2 là 0,3m.
Sông Chảy tại Thác Bà là 25,56m, trên BĐ3 là 3,56m.
Sông Trà Lý tại Quyết Chiến là 3,22m, dưới BĐ2 là 0,08m.
Sông Tích tại trạm Kim Quan là 7,38m, dưới BĐ2 là 0,22m; trạm Vĩnh Phúc là 7,07m dưới BĐ2 là 0,13m.

Nguồn: DWRM

Thủy điện Hòa Bình mở cửa xả thứ 4

 

Hộ gia đình khó khăn được vay vốn đầu tư công trình nước sạch và vệ sinh môi trường

(TN&MT) - Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 10/2024/QĐ-TTg về tín dụng thực hiện cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Theo Quyết định, từ ngày 2/9/2024, các hộ gia đình khó khăn ở nông thôn được hưởng mức cho vay nước sạch là 25 triệu đồng/01 loại công trình/khách hàng.

123-01-1-.jpgNguồn: baotainguyenmoitruong.vn

 

Hộ gia đình khó khăn được vay vốn đầu tư công trình nước sạch và vệ sinh môi trường

 
Trang 12345678910

Trang 5 trong tổng số 36 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay2335
mod_vvisit_counterTrong tuần12817
mod_vvisit_counterTrong tháng67740
mod_vvisit_counterTất cả7134479

We have: 60 guests online