Tin trong nước

Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa và đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện

Bộ TN&MT vừa ban hành Quyết định số 2064/QĐ-BTNMT về việc “Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện” tại các lưu vực sông trên cả nước.

Theo Quyết định, Bộ TN&MT ban hành danh mục giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu 699 hồ chứa, đập dâng của 626 công trình thủy lợi, thủy điện. Trong đó có 660 hồ chứa, đập dâng của 590 công trình thủy điện và 39 hồ chứa, đập dâng của 36 công trình thủy lợi.

Cụ thể, tại lưu vực sông Bằng Giang - Kỳ Cùng nằm trên địa bàn 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn có 16 công trình thủy điện và 1 công trình thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Thượng Ân (tỉnh Bắc Kạn) có giá trị dòng chảy sau đập thấp nhất với 0,2m3/giây; 2 công trình thủy điện có giá trị dòng chảy sau đập cao nhất là Hòa Thuận và Tiên Thành (Cao Bằng) 9,5m3/giây.

Tại lưu vực sông Hồng - Thái Bình có 277 công trình thủy điện, thủy lợi nằm trên địa bàn các tỉnh Bắc Kạn, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa Bình. Đây cũng là lưu vực có nhiều công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp như: Thủy điện Mây Hồ (tỉnh Lào Cai) 0,011 - 0,23 m3/giây; Thủy điện Ngòi Đường 1 (tỉnh Lào Cai) 0,13 m3/giây; Thủy điện Suối Chút 1 (tỉnh Lào Cai) 0,02 - 0,1 m3/giây; Suối Chút 2 (tỉnh Lào Cai) 0,03 - 0,22 m3/giây; Nậm Cát (tỉnh Lai Châu) 0,01m3/giây; Nậm Nhùn 2 (tỉnh Lào Cai) 0,05 - 0,12 m3/giây; Nậm Nhùn 1 (tỉnh Lào Cai) 0,02 - 0,21 m3/giây; Nậm He (tỉnh Điện Biên) 0,12 m3/giây;…

Các công trình có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập cao nhất là thủy điện Sông Lô 8A tại tỉnh Tuyên Quang với 60,25m3/giây; thủy điện Sông Lô 6 nằm trên địa bàn 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang 46,3m3/giây; thủy điện Sông Lô 7 tại tỉnh Tuyên Quang 58,6m3/giây; thủy điện Pắc Ma tại tỉnh Lai Châu với 55,6m3/giây.

Tại khu vực Sông Mã có 30 công trình thủy điện, thủy lợi nằm trên địa bàn các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Nghệ An. Trong đó, công trình thủy điện Trí Năng (tỉnh Thanh Hóa) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,05m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Mường Hung (tỉnh Sơn La) với 21,2m3/giây.

Tại khu vực sông Cả trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh có 22 công trình thủy điện, hồ chứa. Trong đó, công trình thủy điện Ca Nan 1 (tỉnh Nghệ An) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập 0,3m3/giây; thủy điện Ca Lôi (tỉnh Nghệ An) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập thấp nhất với 0,28 m3/giây . Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Khe Bố với 95,5m3/giây.

07072023Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện

Khu vực sông Hương tại Thừa Thiên Huế có 11 công trình thủy điện. Trong đó, công trình thủy điện A Lin B1 có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,17m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Thượng Lộ  với 1,4 m3/giây.

Lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn nằm trên địa bàn hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum có 32 công trình thủy điện. Trong đó, một số công trình thủy điện Tầm Phục (tỉnh Quảng Nam) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,03m3/giây; Nước Biêu (tỉnh Quảng Nam) là 0,32 m3/giây; Tà Vi (tỉnh Quảng Nam) là 0,55 m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Sông Tranh 4 với 9,85m3/giây.

Khu vực sông Trà Khúc tại hai tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi có 18 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Đắk Re 2 (tỉnh Quảng Ngãi) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,07 - 0,285m3/giây; thủy điện Đắk Re (tỉnh Kon Tum) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập là 0,28m3/giây; thủy điện Đắk Ba (tỉnh Quảng Ngãi) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập là 0,01 – 0,61m3/giây. Công trình đập thủy lợi có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Trà Khúc 1 (tỉnh Quảng Ngãi) với giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập là 21,6 m3/giây.

Lưu vực sông Kôn-Hà Thành nằm trên địa bàn hai tỉnh Bình Định và Gia Lai có 5 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Ken Lút Hạ (tỉnh Bình Định) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập thấp nhất 0,05m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Vĩnh Sơn 5 với 3,4m3/giây.

Khu vực sông Sê San (Mê Công) nằm trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum có 49 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Đăk Pia (tỉnh Kon Tum) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,08m3/giây; Đăk Psi (tỉnh Kon Tum) là 0,2m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Sê San 4A với 195m3/giây. 

Khu vực sông Ba nằm trên địa bàn các tỉnh Gia Lai, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk có 25 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy lợi hồ Ia Ring (tỉnh Gia Lai) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,12m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Đăk Srông 3B với 4,24m3/giây.

Khu vực sông Srê Pốk (Mê Công) nằm trên địa bàn các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng có 22 công trình thủy điện. Trong đó, thủy điện Ea Rớt (tỉnh Đắk Lắk) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập là 0,06 m3/giây; thủy điện Đăk Mê 1 (tỉnh Lâm Đồng) và  thủy điện Ea Kar (tỉnh Đắk Lắk) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập là 0,11m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Krông Nô 3 với 3,9m3/giây.

Khu vực sông Đồng Nai nằm trên địa bàn các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước có 58 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, thủy điện Đắk U (tỉnh Bình Phước) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,07m3/giây; Đam Bol - Đạ Tẻh (tỉnh Lâm Đồng) 0,08m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Đồng Nai 5 với 4,43m3/giây.

Khu vực sông Mê Công (Cửu Long) nằm trên địa bàn các tỉnh Điện Biên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, Gia Lai có 10 công trình thủy lợi, thủy điện. Trong đó, thủy điện A Lin Thượng có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,18m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là thủy điện Nậm Núa (tỉnh Điện Biên) với 4,6m3/giây.

Theo Quyết định, Cục Quản lý tài nguyên nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc bảo đảm dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng; xử lý vi phạm đối với hành vi không bảo đảm dòng chảy tối thiểu theo quy định; Định kỳ rà soát, cập nhật, tổng hợp và trình Bộ TN&MT công bố dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng thuộc thẩm quyền cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt của Bộ trước ngày 31 tháng 1 hằng năm.

 Nguồn: https://monre.gov.vn/

Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa và đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện

 

Đại biểu Quốc hội Dương Bình Phú: Sửa đổi Luật Tài nguyên nước cần bổ sung chính sách bắt buộc đối với việc xử lý nước thải đô thị, nước thải công nghiệp tập trung

Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 vừa qua và dự kiến xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 6 năm 2023. Góp ý vào dự án Luật này, đại biểu Dương Bình Phú - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên đề nghị bổ sung chính sách bắt buộc đối với việc xử lý nước thải đô thị, nước thải công nghiệp tập trung có quy mô lớn. Đồng thời cần bổ sung khoản giao cho Chính phủ xem xét, quyết định quy mô, công suất, đặc tính, loại hình của các cơ sở, hệ thống phải thực hiện theo mục tiêu tái sử dụng nước thải sau xử lý và sử dụng phù hợp với các mục tiêu.

Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV vừa qua.
Quan tâm đến dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), đại biểu Dương Bình Phú - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên bày tỏ thống nhất với sự cần thiết sửa đổi Luật Tài nguyên nước nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.
Đồng thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Trong đó, cần nghiên cứu, sửa đổi ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành và nghiên cứu tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước.
01-ddbqh-duong-binh-phu-sang-10.06Đại biểu Dương Bình Phú - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên
Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) gồm 10 chương, 83 Điều. Góp ý cụ thể vào dự án Luật này, về khoản 24 Điều 3 giải thích về việc vận hành hồ chứa theo thời gian học, đại biểu Dương Bình Phú đề nghị cần làm rõ “thời gian thực” là khoảng thời gian bao nhiêu, vì thời gian tính ra kết quả để ra quyết định vận hành các hồ chứa thủy điện không chỉ phụ thuộc vào thời gian dự báo theo thời gian thực mà còn phụ thuộc vào thuật toán (phần mềm tính toán), cấu hình máy tính để chạy mô hình và kinh nghiệm của người thực hiện vận hành.
Vì vậy, đại biểu Dương Bình Phú đề nghị chỉnh sửa như sau: “Vận hành hồ chứa, tiệm cận theo thời gian thật là quá trình ra quyết định vận hành điều tiết hồ chứa liên tục, tức là thời gian cơ sở tuân thủ theo quy định của quy trình vận hành hồ chứa và cập nhật thông tin, số liệu khí tượng thủy văn hồ theo thời gian thực”.
Liên quan quy định về chính sách nhà nước về tài nguyên nước tại Điều 5, đại biểu đề nghị bổ sung chính sách bắt buộc đối với việc xử lý nước thải đô thị, công nghiệp tập trung ở quy mô lớn. Cần xem xét và bổ sung khoản giao cho Chính phủ xem xét, quyết định quy mô, công suất, đặc tính, loại hình của các cơ sở, hệ thống phải thực hiện theo mục tiêu tái sử dụng nước thải sau xử lý và sử dụng phù hợp với các mục tiêu.
Đề cập về hành vi bị nghiêm cấm đổ chất thải tại khoản 1 Điều 10 quy định: “đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn nước và các hành vi khác gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước”, đại biểu Dương Bình Phú đề nghị bổ sung thêm cụm từ: “các hoạt động khai thác gây hại tới hệ sinh thái thủy sinh”. Vì thực tế hiện nay, các hoạt động khai thác thủy sản sử dụng các chất hay vật dụng gây ảnh hưởng tới hệ sinh thái dưới nước và môi trường nước khi khai thác thủy sản (chích điện, chất nổ...); Mặt khác tại điểm e, khoản 3 Điều 23 của dự thảo Luật cũng có nêu: “bảo tồn và phát triển hệ sinh thái thủy sinh…”
Do đó, đại biểu đề nghị biên soạn lại khoản 1 Điều 10 như sau: “Đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn nước và các hoạt động khai thác gây hại tới hệ sinh thái thủy sinh và các hành vi khác gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước”.
Ngoài ra, đại biểu Dương Bình Phú cũng đề nghị rà soát và xem lại sự cần thiết ban hành nhiều quy hoạch và tài nguyên nước như hiện nay và để tránh trùng lập, chồng chéo các quy hoạch khác. Quy định quy hoạch tài nguyên nước bao gồm: Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia; Quy hoạch tổng thể khu vực sông (ở khu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh) và Quy hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước quốc gia có hệ thống quy hoạch quốc gia. Theo dự thảo Tờ trình, sau khi Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 có hiệu lực, các địa phương đã và đang xây dựng lồng ghép nội dung về tài nguyên nước trong quy hoạch tỉnh theo quy định.
db2
Bên cạnh đó, tại khoản 6 Điều 22 quy định: “Đối với các quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành, quy hoạch điều chỉnh có khai thác, sử dụng tài nguyên nước do các bộ, cơ quan ngang bộ lập phải có ý kiến bằng văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường về sự phù hợp với quy hoạch và tài nguyên nước, chức năng nguồn nước và khả năng nguồn nước”.
Đại biểu Dương Bình Phú đề nghị bỏ khoản này vì nội dung quy định này không phù hợp với quy định và mối quan hệ giữa các loại quy hoạch (thứ bậc quy hoạch) tại Luật Quy hoạch. Đại biểu cho rằng, các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành điều thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cơ quan, tổ chức lập quy hoạch đều lấy ý kiến của các Bộ, ngành, các cơ quan liên quan và Hội đồng thẩm định thông qua hồ sơ quy hoạch, trong đó có đại diện của các bộ, ngành có liên quan. Mặt khác, đại biểu nhận thấy, việc quy định tại khoản 6 sẽ phát sinh nhiều thủ tục hành chính.
Tại điểm b khoản 1 Điều 66 dự thảo Luật đã bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước cấp cho sinh hoạt. Tuy nhiên, đại biểu Dương Bình Phú cho rằng, quy định trên chưa thống nhất với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 45 dự thảo Luật, Nhà nước “có chính sách ưu đãi, khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt”.
Vì vậy, đại biểu Dương Bình Phú đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo giải trình rõ lý do bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, đối với nước cấp cho sinh hoạt (không mang tính chất thương mại), đồng thời đề nghị đánh giá tác động kinh tế - xã hội của quy định nêu trên. Lưu ý các chi phí có thể phát sinh đối với người dân và tổ chức, cá nhân chịu ảnh hưởng./.

Nguồn tin: quochoi.vn

Đại biểu Quốc hội Dương Bình Phú: Sửa đổi Luật Tài nguyên nước cần bổ sung chính sách bắt buộc đối với việc xử lý nước thải đô thị, nước thải công nghiệp tập trung

 

Báo cáo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh về việc hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Chiều 13/6, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đã chủ trì buổi làm việc với Cục Quản lý tài nguyên nước và các cơ quan liên quan thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm tiếp thu, làm rõ ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận Tổ vào chiều ngày 05/6 về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Phát biểu chỉ đạo cuộc họp, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh khẳng định, việc xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là nhiệm vụ chính trị quan trọng, đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu ý kiến của các đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), trên cơ sở dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn, chồng chéo giữa Luật Tài nguyên nước với các luật khác để thống nhất việc điều tra, quản lý, khai thác sử dụng từ Trung ương đến địa phương, thống nhất quản lý về tài nguyên nước.

01Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh phát biểu chỉ đạo cuộc họp

Bộ trưởng cũng đề nghị cơ quan soạn thảo cần tiếp tục đánh giá xu hướng phát triển, nhìn nhận khách quan trên tinh thần cầu thị, tiếp thu các ý kiến đóng góp, để dự án Luật sau khi sửa đổi có sức sống dài hạn.

Báo cáo tại cuộc họp, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, với 493 ý kiến thảo luận tại 19 Tổ về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) của đại biểu Quốc hội, đa số các đại biểu đều thống nhất về sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với các lý do đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật liên quan, cũng như đáp ứng nhu cầu hội nhập sâu rộng của đất nước.

QHSD02Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh báo cáo tại cuộc họp

Về hồ sơ và bố cục dự thảo Luật, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cũng cho biết, đa số ý kiến đồng tình và đánh giá cao quá trình chuẩn bị dự án Luật của Chính phủ và cho rằng hồ sơ dự án Luật đã được chuẩn bị công phu, đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài hồ sơ theo quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương giải trình cụ thể các kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, nghiêm túc, kỹ lưỡng. Đa số ý kiến đánh giá cao Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và cho rằng báo cáo thẩm tra có chất lượng, đã nêu quan điểm rõ ràng, thẳng thắn, đưa ra được nhiều vấn đề để Chính phủ tiếp tục hoàn thiện dự án Luật.

Tại cuộc họp, các đại biểu đã tiếp tục thảo luận các nội dung mà đại biểu Quốc hội đặt ra để trên cơ sở đó sẽ hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.

Cùng với đó, hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân. Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về: giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; đẩy mạnh xã hội hoá.

03Quanh cảnh cuộc họp

Kết luận cuộc họp, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước và đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia. Vì vậy, cơ quan soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến trên tinh thần cầu thị, để hoàn thiện dự án Luật. Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua sẽ đặt lợi ích của Nhân dân, đất nước lên trên hết, để tài nguyên nước xứng đáng với vai trò quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước.

Nguồn: dwrm.gov.vn

Báo cáo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh về việc hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

 

Quốc hội bầu Đồng chí Đặng Quốc Khánh giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Chiều 22/5, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XV, với 91,90% đại biểu Quốc hội tán thành, đồng chí Đặng Quốc Khánh – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang  đã được Quốc hội bầu, phê chuẩn làm Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2021-2026.

 

Tân Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh kế nhiệm đồng chí Trần Hồng Hà – người được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ từ đầu tháng 1/2023 và được Quốc hội phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường đầu giờ chiều cùng ngày 22/5/2023.

bt1Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tặng hoa tân Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh (bên phải) và tân Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh (bên trái).

 

Tân Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; tiến sĩ chuyên ngành Quản lý đô thị và công trình, kỹ sư xây dựng dân dụng và công nghiệp; Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng khóa 12; Ủy viên BCH Trung ương Đảng khóa 13; Đại biểu Quốc hội hai khóa liên tiếp khoá 14 và khoá 15.

bt2Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tặng hoa chúc mừng tân Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh.

250503Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng hoa chúc mừng tân Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh.

Tóm tắt quá trình công tác của tân Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh

Từ ngày 26/01/2016 – 08/4/2016: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2011 – 2016, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh.

Từ ngày 09/4/2016 – 20/4/2016: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, đại biểu HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011 – 2016, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh.

Từ ngày 21/4/2016 – 21/5/2016: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, đại biểu HĐND tỉnh, nhiệm kỳ 2011 – 2016, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh.

Từ ngày 22/5/2016 – 25/7/2016: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu Quốc hội khóa XIV, nhiệm kỳ 2016 – 2021; đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh, nhiệm kỳ 2016 – 2021, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh.

Từ ngày 26/7/2016 – 20/6/2019: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIV tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu HĐND tỉnh, nhiệm kỳ 2016 – 2021, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Hà Tĩnh; Ủy viên Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội khoá XIV, nhiệm kỳ 2016 – 2021.

250504Đồng chí Đặng Quốc Khánh kiểm tra một dự án của tỉnh Hà Giang trên cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang.

Đồng chí Đặng Quốc Khánh kiểm tra một dự án của tỉnh Hà Giang trên cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang.

Từ ngày 21/6/2019 – 29/01/2021, Đồng chí Đặng Quốc Khánh giữ các chức vụ: Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang; Đại biểu Quốc hội khóa XIV, tỉnh Hà Giang; Thành viên Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội khoá XIV, nhiệm kỳ 2016 – 2021; Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh Hà Giang, nhiệm kỳ 2015- 2020.

Từ ngày 30/01/2021 đến ngày 22/5/2023: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang; Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XV tỉnh Hà Giang. Thành viên Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khoá XV; Bí thư Đảng uỷ Quân sự tỉnh Hà Giang nhiệm kỳ 2020 – 2025.

250505Đồng chí Đặng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang (người đứng – nay là Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường) làm việc với Đoàn công tác của Bộ Tài nguyên và Môi trường tháng 8/2020 do Bộ trưởng Trần Hồng Hà (ngồi giữa – nay là Phó Thủ tướng Chính phủ) làm Trưởng đoàn.

06Đồng chí Đặng Quốc Khánh (bên trái) dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV sáng ngày 22/5/2023 trên cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang

Chiều ngày 22/5/2023, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XV, với 91,90% đại biểu Quốc hội tán thành, đồng chí Đặng Quốc Khánh – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang  đã được Quốc hội bầu, phê chuẩn giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2021-2026.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

 

Quốc hội bầu Đồng chí Đặng Quốc Khánh giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

 

Nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng mùa khô tới, Bộ TN&MT chỉ đạo khẩn triển khai các biện pháp cấp bách

Ngày 8/5, Bộ TN&MT đã có Công văn gửi các Bộ, UBND các tỉnh, thành phố, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, và các đơn vị quản lý, vận hành các hồ chứa lưu vực sông thực hiện các giải pháp cấp bách, giảm thiểu nguy cơ thiếu nước cấp cho hạ du các lưu vực sông miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ các tháng cuối mùa cạn năm 2023.

Theo báo cáo của Bộ TN&MT, hiện nay, mực nước các hồ chứa lớn, quan trọng đều đang ở mức rất thấp, thiếu hụt so với quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa trong thời kỳ mùa cạn trên các lưu vực sông. Mực nước hồ chứa trung bình thấp hơn trong khoảng từ 0,4m đến 24m, tương ứng tổng lượng nước thiếu hụt trong khoảng từ 16 đến 389 triệu m3 , cụ thể một số hồ chứa lớn như: hồ Bản Vẽ (thiếu hụt 389 triệu m3 ), Ngàn Trươi (thiếu hụt 222,7 triệu m3 ), A Vương (thiếu hụt 48,26 triệu m3 ), Buôn Tua Srah (thiếu hụt 111,3 triệu m3 ), Sông Tranh 2 (thiếu hụt 68,4 triệu m3 )…

Với tình trạng thiếu hụt nguồn nước như nêu trên, cùng với Bản tin nhận định xu thế khí tượng thủy văn, khả năng ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và nhận định sớm về nguy cơ thiếu hụt nguồn nước đến cuối mùa cạn năm 2023 của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, trong đó dòng chảy có thể thiếu hụt từ 20-40% trên các sông ở khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ trong các tháng cuối mùa cạn năm 2023, 20-50% trên các sông ở khu vực Nam Trung Bộ, 15-25% trên các sông ở khu vực Tây Nguyên so với trung bình nhiều năm. Tổng lượng dòng chảy đến các hồ chứa lớn khu vực Bắc Trung Bộ được dự báo thấp hơn từ 15-35%, khu vực Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ thấp hơn từ 15- 40%, khu vực Tây Nguyên thấp hơn từ 10-25% so với trung bình nhiều năm. Nguy cơ thiếu nước trong thời gian còn lại của mùa cạn có khả năng sẽ diễn ra nghiêm trọng.

Vì vậy, để chủ động, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thiếu nước có thể xảy ra trên các lưu vực sông miền Trung, Tây Nguyên, bảo đảm cân đối đủ nguồn nước cấp cho hạ du các lưu vực sông trong mùa cạn năm 2023, đặc biệt là bảo đảm nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất trong thời kỳ nắng nóng, cao điểm, Bộ TN&MT trân trọng đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia, các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa lập kế hoạch, phương án huy động, kế hoạch vận hành của các nhà máy thủy điện cho phù hợp với hiện trạng nguồn nước và các quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông, đặc biệt là các hồ chứa đang có mực nước hồ thấp, trên nguyên tắc ưu tiên cân đối nguồn nước cấp cho hạ du trong thời gian còn lại mùa cạn, bảo đảm các yêu cầu sử dụng nước và giảm thiểu tối đa nguy cơ thiếu nước ở hạ du các lưu vực sông.

Cùng với đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các cơ quan chức năng, tính toán, lập kế hoạch lấy nước cụ thể phục vụ sản xuất vụ Hè Thu năm 2023; chủ trì, thống nhất với các cơ quan liên quan về thời gian cụ thể và phương án điều tiết nước cho hạ du theo hướng linh hoạt về thời gian lấy nước và mực nước hạ du sông, bảo đảm phù hợp khả năng lấy nước hiệu quả của công trình thủy lợi; hướng dẫn các địa phương khu vực hạ lưu thống nhất mùa vụ, thời gian lấy nước phù hợp với thời gian xả nước gia tăng của các hồ chứa theo kế hoạch, không để kéo dài thời gian lấy nước.

Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị quản lý vận hành hệ thống công trình thủy lợi phía hạ du rà soát, nâng cao năng lực, hiệu quả lấy nước phù hợp với điều kiện nguồn nước các hồ chứa và trên các lưu vực sông, đặc biệt là các công trình lấy nước dọc dòng chính và các hệ thống thủy lợi lớn ở hạ du tránh lãng phí nguồn nước, đặc biệt trên các lưu vực sông Mã, Cả, Vu Gia-Thu Bồn và sông Ba.

Bộ Xây dựng chỉ đạo các cơ quan chức năng, các đơn vị quản lý, vận hành các Nhà máy nước lớn, quan trọng, rà soát, nâng cao năng lực, hiệu quả lấy nước phù hợp với điều kiện nguồn nước các hồ chứa và trên các lưu vực sông, bảo đảm cấp nước an toàn cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân ở hạ du các lưu vực sông, đặc biệt trên các lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn, Ba và sông Đồng Nai.

090502

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các tổ chức trực thuộc, các cơ quan liên quan trong phạm vi cấp tỉnh quản lý lập kế hoạch sử dụng nước phù hợp trong điều kiện thiếu hụt nguồn nước; chỉ đạo các đơn vị quản lý vận hành hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh quản lý thực hiện việc lấy nước phù hợp với thời gian, kế hoạch vận hành xả nước của các hồ chứa; phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong triển khai thống nhất mùa vụ, thời gian lấy nước phù hợp với kế hoạch vận hành xả nước của các hồ chứa; đồng thời cải tạo, nâng cấp, bổ sung công trình để chủ động, linh hoạt trong việc tổ chức lấy nước trong điều kiện nguồn nước tiếp tục có nguy cơ thiếu hụt trong thời gian tới.

Đồng thời chỉ đạo các Sở, ban ngành, các đơn vị quản lý, vận hành các công trình khai thác, sử dụng nước phía hạ du thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình khí tượng, thủy văn, nguồn nước để vận hành các công trình khai thác, sử dụng nước cho phù hợp, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí nguồn nước.

Các đơn vị quản lý vận hành hồ chứa trên các lưu vực sông theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến khí tượng thủy văn, dự báo, tính toán, xây dựng các kịch bản vận hành, điều tiết hồ và cung cấp thông tin, số liệu theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa; vận hành hồ với lưu lượng, thời gian xả theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa và yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; bảo đảm yêu cầu cấp nước an toàn cho hạ du các lưu vực sông đến cuối mùa cạn.

Nguồn: baotainguyenmottruong.vn

Nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng mùa khô tới, Bộ TN&MT chỉ đạo khẩn triển khai các biện pháp cấp bách

 
Trang 12345678910

Trang 6 trong tổng số 28 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay188
mod_vvisit_counterTrong tuần2664
mod_vvisit_counterTrong tháng12826
mod_vvisit_counterTất cả4104596

We have: 4 guests online