Tin trong nước

Lời khẩn cầu từ vùng lũ: Nhiều công trình thủy lợi bị hư hại

Đợt mưa lũ cuối tháng 10 đã gây hư hỏng nhiều công trình thủy lợi tại Đà Nẵng. Địa phương đang tập trung đánh giá thiệt hại và triển khai các giải pháp khắc phục.

Đào tạo thủy lợi thông minh, công nghệ bán dẫn nâng tầm trường đầu ngành

Những công trình thủy lợi kỳ vỹ ở Đồng bằng sông Cửu Long

'Bắt mạch' vi phạm công trình thủy lợi ở Hà Tĩnh: Xử lý... nhỏ giọt!

Đầu tư ngay cho hệ thống thủy lợi nội đồng

Nhiều hư hỏng

Mưa lớn cuối tháng 10 đã gây ra hàng loạt điểm sạt lở nghiêm trọng trên hệ thống thủy lợi của xã Duy Xuyên (TP Đà Nẵng), đe dọa trực tiếp đến sản xuất vụ đông xuân 2025-2026. Tại khu vực kè cầu Đập Bầu, nước lũ làm xói lở hơn 60m bờ kè, cuốn trôi khoảng 850m³ đất, ảnh hưởng hơn 6ha lúa của người dân thôn Trung Đông.

Đặc biệt, gần 5.000m³ đất bồi lấp hai bên bìa ruộng khiến nhiều diện tích không thể canh tác, nguy cơ người dân phải bỏ vụ. Điểm sạt lở cũng đã áp sát trụ điện cao thế 220V, chỉ còn chưa đầy 3m, tiềm ẩn rủi ro mất an toàn rất lớn nếu tiếp tục mưa lớn.

Hệ thống kênh mương thủy lợi tại xã Duy Xuyên bị bồi lấp, hư hỏng đe dọa nguồn nước tưới phục vụ sản xuất vụ đông xuân. Ảnh: Lan Anh.Hệ thống kênh mương thủy lợi tại xã Duy Xuyên bị bồi lấp, hư hỏng đe dọa nguồn nước tưới phục vụ sản xuất vụ đông xuân. Ảnh: Lan Anh.

Không chỉ Đập Bầu, tuyến kênh thủy lợi Minh Khánh (thôn An Hòa) dài 1,5km cũng bị sạt taluy âm tại 5 vị trí, tổng chiều dài 37m, khối lượng đất bị cuốn trôi lên đến 288m³. Tình trạng này làm gián đoạn dòng chảy, ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 30ha lúa và hoa màu, đe dọa nguồn nước tưới cho vụ sản xuất sắp tới.

Ông Nguyễn Bảo, Giám đốc HTX nông nghiệp Duy Trung 1, lo lắng: “Năm nay là lần đầu tiên kênh Minh Khánh bị sạt lở nặng như vậy. Nếu không khắc phục kịp thời, 120 hộ dân sẽ bị ảnh hưởng nặng nề”.

Tại thôn Chiêm Sơn Đông, đập Đồng Quảng - công trình thủy lợi quan trọng phục vụ tưới cho 60ha lúa và hoa màu của hai thôn Chiêm Sơn Đông và Trà Kiệu Tây cũng bị sạt lở hơn 15m. Theo ông Nguyễn Văn Sáu, Phó Giám đốc HTX Duy Sơn, từ năm 2020 đến nay, đập này đã ba lần bị sạt, địa phương chỉ có thể gia cố tạm bằng đất đầm chặt hoặc bê tông những vị trí xuống cấp, nhưng về lâu dài vẫn cần nguồn vốn lớn để sửa chữa căn cơ.

Nếu không sớm khắc phục hệ thống công trình thủy lợi bị hư hỏng sau lũ, vụ đông xuân của xã Duy Xuyên có nguy cơ không thể sản xuất. Ảnh: Lan Anh.Nếu không sớm khắc phục hệ thống công trình thủy lợi bị hư hỏng sau lũ, vụ đông xuân của xã Duy Xuyên có nguy cơ không thể sản xuất. Ảnh: Lan Anh.

Thống kê cho thấy đợt mưa lịch sử đã gây thiệt hại hơn 41,5 tỷ đồng tại xã Duy Xuyên, trong đó riêng hệ thống thủy lợi, trạm bơm, kênh mương và bờ kè thiệt hại hơn 5,6 tỷ đồng.

Khẩn trương sửa chữa

Ông Nguyễn Chí Công, Phó Chủ tịch UBND xã Duy Xuyên cho biết, thành phố Đà Nẵng đã hỗ trợ 4 tỷ đồng để địa phương triển khai các hạng mục cấp bách sau đợt mưa lũ cuối tháng 10. Trên cơ sở nguồn kinh phí này, xã ưu tiên khắc phục những điểm sạt lở nặng nhằm bảo đảm giao thông thông suốt, đồng thời tập trung sửa chữa hệ thống thủy lợi để kịp phục vụ sản xuất vụ đông xuân.

“Địa phương kiến nghị Trung ương và thành phố tiếp tục quan tâm, hỗ trợ thêm kinh phí để xử lý triệt để các điểm hư hỏng, sớm ổn định đời sống nhân dân và phục hồi sản xuất sau thiên tai”, ông Công nhấn mạnh.

Sạt lở tại đập Đồng Quảng (thôn Chiêm Sơn Đông). Ảnh: Lan Anh.Sạt lở tại đập Đồng Quảng (thôn Chiêm Sơn Đông). Ảnh: Lan Anh.

Theo Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự TP Đà Nẵng, đợt mưa lũ cuối tháng 10/2025 đã làm vỡ 20m đê sông Ly Ly tại xã Xuân Phú, ảnh hưởng 48 hộ dân với 175 nhân khẩu; tại xã Duy Nghĩa, đoạn kè bờ sông bị sạt dài khoảng 75m. Toàn thành phố có 14 công trình thủy lợi và 8 công trình cấp nước bị hư hỏng; hơn 8.000m kênh mương bị sạt lở, bồi lấp.

Các công trình hư hỏng nếu không được khắc phục, sửa chữa kịp thời sẽ có nguy cơ thiếu nước tưới cho vụ đông xuân và chậm tiêu thoát nước đối với những diện tích cây trồng vẫn đang úng ngập. Bên cạnh đó, lượng bùn đất lớn do lũ bồi lấp đã tạo mặt bằng mới ở nhiều cánh đồng, đòi hỏi hệ thống thủy lợi phải được nâng cấp và tôn tạo để đáp ứng yêu cầu sản xuất sau thiên tai.

Cần sớm khắc phục hư hỏng hệ thống thủy lợi sau các đợt mưa lũ tại Đà Nẵng. Ảnh: Lan Anh.Cần sớm khắc phục hư hỏng hệ thống thủy lợi sau các đợt mưa lũ tại Đà Nẵng. Ảnh: Lan Anh.

Trước tình hình này, Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Đà Nẵng đã yêu cầu các địa phương chủ động phân bổ nguồn kinh phí tạm thời để khắc phục hư hỏng nhẹ, đồng thời rà soát, thống kê thiệt hại và đề xuất nhu cầu hỗ trợ theo đúng quy định, gửi về Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự thành phố, Sở Nông nghiệp và Môi trường và Sở Tài chính.

Ông Phạm Quang Đông, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý tài nguyên nước và thủy lợi Đà Nẵng, cho biết các địa phương đang triển khai giải pháp tạm thời để bảo đảm nguồn tưới bước một, nạo vét cửa lấy nước và khôi phục các tuyến kênh mương bị bồi lấp. Sau khi hoàn thiện thống kê thiệt hại, UBND thành phố sẽ bố trí kinh phí để kịp thời hỗ trợ khôi phục sản xuất cho các vùng bị ảnh hưởng nặng.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

Lời khẩn cầu từ vùng lũ: Nhiều công trình thủy lợi bị hư hại

 

Tài nguyên nước - nền tảng cho phát triển bền vững

Hơn hai thập kỷ qua, khung pháp lý quản lý thống nhất tài nguyên nước được hoàn thiện, trở thành nền tảng quan trọng bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.

Phạt đến 500 triệu đồng với vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước

Hợp tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc về chuyển đổi số ngành nước

AWC 2025: Việt Nam khẳng định vai trò cầu nối hợp tác ngành nước khu vực

Chuẩn hóa quy trình kỹ thuật quan trắc, cảnh báo và dự báo nguồn nước

Nước luôn được ví như “huyết mạch” của sự sống, yếu tố thiết yếu cho mọi hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Trong cơ cấu chức năng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, lĩnh vực tài nguyên nước giữ vai trò trụ cột, là nền tảng để điều hòa, phân bổ, bảo vệ và phục hồi nguồn nước, phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực và thích ứng biến đổi khí hậu.

Lễ hội đua ghe hưởng ứng ngày Nước thế giới tại Hậu Giang. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.Lễ hội đua ghe hưởng ứng ngày Nước thế giới tại Hậu Giang. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.

Lễ hội đua ghe hưởng ứng ngày Nước thế giới tại Hậu Giang. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.

Hình thành khung thể chế thống nhất về tài nguyên nước

Trước năm 1998, nước ta chưa có luật chuyên ngành về tài nguyên nước, việc quản lý còn phân tán giữa các lĩnh vực thủy lợi, thủy điện, cấp nước... Việc Quốc hội thông qua Luật Tài nguyên nước năm 1998 đánh dấu bước ngoặt lớn, khi lần đầu tiên Việt Nam có cơ sở pháp lý cho quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Giai đoạn này, công tác quản lý tài nguyên nước được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mới chủ yếu tập trung vào vận hành, đầu tư và bảo vệ công trình thủy lợi. Cùng với tiến trình đổi mới quản lý nhà nước, đến năm 2002, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2002/NĐ-CP thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), chức năng quản lý tài nguyên nước được giao thống nhất về một đầu mối.

Sự ra đời của Cục Quản lý tài nguyên nước đã tạo nền tảng quan trọng để chuyên môn hóa công tác quản lý, giúp Bộ chủ động xây dựng chính sách, quy hoạch và thực thi pháp luật. Các văn bản tiếp theo như: Quyết định 1035/QĐ-BTNMT năm 2008, Quyết định 1686/QĐ-BTNMT năm 2013, Quyết định 1536/QĐ-BTNMT năm 2017 và Quyết định 2866/QĐ-BTNMT năm 2022 tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Cục, mở rộng phạm vi quản lý theo hướng hiện đại, lấy hiệu quả sử dụng và bảo vệ nguồn nước làm trọng tâm.

Đặc biệt, bước sang năm 2025, khi hợp nhất thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Quản lý tài nguyên nước chính thức là cơ quan đầu mối giúp Bộ trưởng thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên phạm vi toàn quốc. Từ đây, công tác điều hòa, phân phối, phục hồi, khai thác và bảo vệ nguồn nước được triển khai đồng bộ, thống nhất, hướng tới phát triển bền vững.

Luật Tài nguyên nước năm 2023 - bước tiến lớn về thể chế 

Một dấu mốc quan trọng khác trong tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý nước của Việt Nam là sự ra đời của Luật Tài nguyên nước năm 2023, thay thế Luật năm 2012. Đây không chỉ là sự điều chỉnh kỹ thuật đơn thuần mà là bước phát triển mang tính toàn diện, phản ánh tầm nhìn chiến lược mới về quản trị nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đô thị hóa và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng.

Quốc hội khóa XV thông qua Luật Tài nguyên nước 2023 là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.Quốc hội khóa XV thông qua Luật Tài nguyên nước 2023 là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.

Quốc hội khóa XV thông qua Luật Tài nguyên nước 2023 là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Ảnh: Cục Quản lý tài nguyên nước.

Luật Tài nguyên nước 2023 đã thiết lập nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính, qua đó khắc phục triệt để tình trạng chia cắt, chồng chéo trong khai thác, sử dụng nguồn nước. Cách tiếp cận này giúp bảo đảm sự liên kết vùng, điều hòa lợi ích giữa các địa phương và ngành kinh tế, hướng đến khai thác bền vững và sử dụng hiệu quả từng đơn vị nước.

 Đặc biệt, Luật khẳng định rõ vai trò của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước - bước kiện toàn quan trọng nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý. Quan điểm xuyên suốt được thể hiện là “nước là tài sản quốc gia, là nguồn lực chung cần được quản lý tập trung, tiết kiệm và hiệu quả”, coi bảo vệ, phục hồi nguồn nước là nhiệm vụ chiến lược gắn với an ninh môi trường, an ninh lương thực và an ninh năng lượng quốc gia.

Cùng với đó, Luật cũng bổ sung nhiều cơ chế mới mang tính đột phá, như quy định thu tiền cấp quyền khai thác, chế tài về bảo vệ và phục hồi nguồn nước, chính sách khuyến khích tái sử dụng và tuần hoàn nước trong sản xuất. Những nội dung này không chỉ tạo hành lang pháp lý minh bạch, khả thi mà còn định hướng quản lý tài nguyên nước theo cơ chế thị trường, công bằng và bền vững, thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp và cộng đồng trong bảo vệ, phát triển nguồn nước góp phần quan trọng cho tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Công nghệ số quản lý, giám sát và phục hồi nguồn nước

Những năm gần đây, công tác giám sát và điều tiết nguồn nước đã có bước tiến vượt bậc nhờ ứng dụng công nghệ số. Hàng trăm công trình khai thác nước mặt và nước ngầm được giám sát trực tuyến, giúp cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời lưu lượng khai thác, chất lượng nguồn nước và nguy cơ suy thoái, ô nhiễm.

Công tác quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và lưu vực sông được triển khai đồng bộ, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai và năng lượng, tạo cơ sở cho phân bổ nguồn nước hợp lý giữa các ngành, các địa phương. Nhờ đó, tình trạng tranh chấp, mâu thuẫn trong sử dụng nước giữa các vùng giảm đáng kể.

Hồ treo trữ nước trên núi ở Đồng Văn. Ảnh: Trần Minh Phượng.Hồ treo trữ nước trên núi ở Đồng Văn. Ảnh: Trần Minh Phượng.

Hồ treo trữ nước trên núi ở Đồng Văn. Ảnh: Trần Minh Phượng.

Song song, các chương trình phục hồi nguồn nước suy thoái, ô nhiễm, đặc biệt tại các lưu vực sông lớn như sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Cửu Long, được triển khai mạnh mẽ, mang lại hiệu quả tích cực. Các dự án tìm kiếm nước ngọt cho vùng khan hiếm, đảo xa, khu vực chịu ảnh hưởng hạn hán, xâm nhập mặn cũng được thực hiện, bảo đảm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất cho hàng triệu người dân.

Công tác cấp phép, thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được thực hiện minh bạch, đúng pháp luật, mang lại nguồn thu ngân sách hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm. Nguồn lực này không chỉ phục vụ tái đầu tư cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước, mà còn góp phần vào tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

Hơn nữa, việc coi trọng quản lý tổng hợp tài nguyên nước đã giúp nâng cao hiệu quả sử dụng nước trong nông nghiệp, công nghiệp và đô thị, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, giảm phát thải carbon và bảo vệ hệ sinh thái nước.

Từ quản lý rời rạc đến thống nhất, từ khai thác sang phát triển bền vững, lĩnh vực tài nguyên nước Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định cam kết bảo đảm an ninh nguồn nước - nền tảng cho phát triển bền vững và thịnh vượng quốc gia.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

 

Tài nguyên nước - nền tảng cho phát triển bền vững

 

Gala kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường

 

Gala kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường tôn vinh hành trình phát triển xanh, bền vững và hướng tới nền kinh tế sinh thái, hạnh phúc.

Tối 11/11, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Gala Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường. Dự Gala có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại diện các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương và địa phương cùng đại diện các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, đối tác và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn ngành.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng (giữa) cùng nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực (bìa trái) và nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cắt bánh chúc ngành Nông nghiệp và Môi trường tròn 80 năm hình thành và phát triển. Ảnh: Tùng Đinh.Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng (giữa) cùng nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực (bìa trái) và nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cắt bánh chúc ngành Nông nghiệp và Môi trường tròn 80 năm hình thành và phát triển. Ảnh: Tùng Đinh.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng (giữa) cùng nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực (bìa trái) và nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cắt bánh chúc ngành Nông nghiệp và Môi trường tròn 80 năm hình thành và phát triển. Ảnh:Tùng Đinh.

Phát biểu tại Gala, Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh: “Hôm nay, chúng ta cùng có mặt trong niềm vui, niềm phấn khởi và tự hào sâu sắc nhân dịp kỷ niệm 80 năm hình thành và phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam. Đây không chỉ là hành trình của sản xuất và quản trị tài nguyên mà còn là hành trình của niềm tin, tinh thần trách nhiệm và khát vọng dựng xây một đất nước phát triển bền vững, hạnh phúc.Từ những ngày đầu kháng chiến chống đói năm 1945 đến nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số và phát triển xanh, ngành Nông nghiệp và Môi trường luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc, trở thành điểm tựa sinh kế của người dân và là lá chắn bảo vệ sự sống của đất nước".

Bộ trưởng Trần Đức Thắng phát biểu tại đêm Gala. Ảnh: Tùng Đinh.Bộ trưởng Trần Đức Thắng phát biểu tại đêm Gala. Ảnh: Tùng Đinh.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng phát biểu tại đêm Gala. Ảnh:Tùng Đinh.

Dấu ấn 80 năm nỗ lực và khát vọng

Theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, trong suốt 80 năm qua, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước đều in dấu nỗ lực, trí tuệ và cống hiến của hàng triệu con người, từ những nông dân cần cù, kỹ sư, nhà khoa học đến các thế hệ cán bộ ngành Nông nghiệp và Môi trường.Đây chính là lực lượng đã giữ màu xanh cho hậu phương, làm chủ nguồn tài nguyên quốc gia để hôm nay chúng ta có một nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, số hóa, hiện đại và bền vững, một nền kinh tế đặt con người và thiên nhiên vào vị trí trung tâm của phát triển.Bộ trưởng Trần Đức Thắng thay mặt lãnh đạo Bộ nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo, các vị đại biểu, khách quý và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn ngành đã có mặt trong đêm Gala kỷ niệm 80 năm truyền thống vẻ vang.

Ông cho biết, trong suốt thời gian qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu chiến lược quốc gia, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những kết quả ấy là mồ hôi, trí tuệ và khát vọng của bao thế hệ, là hành trình chuyển hóa tri thức thành sức mạnh quốc gia.

Bước ngoặt hướng tới phát triển tích hợp, thông minh

Một dấu mốc đáng chú ý được Bộ trưởng Trần Đức Thắng đề cập là sự hợp nhất giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường từ ngày 1/3/2025, mở ra một giai đoạn phát triển mới.

Theo ông, đây không chỉ là sự sắp xếp về tổ chức mà còn là biểu tượng của trí tuệ, kinh nghiệm và khát vọng quốc gia nhằm chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng xanh, từ phát triển theo ngành sang phát triển tích hợp, thông minh, lấy con người làm trung tâm và hạnh phúc làm mục tiêu cao nhất.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng cảm ơn các đối tác quốc tế đã luôn đồng hành trong hành trình phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng và Việt Nam nói chung. Ảnh: Tùng Đinh.Bộ trưởng Trần Đức Thắng cảm ơn các đối tác quốc tế đã luôn đồng hành trong hành trình phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng và Việt Nam nói chung. Ảnh: Tùng Đinh.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng cảm ơn các đối tác quốc tế đã luôn đồng hành trong hành trình phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng và Việt Nam nói chung. Ảnh:Tùng Đinh.

Nhìn lại 80 năm, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định, bài học quý giá nhất mà ngành Nông nghiệp và Môi trường rút ra được là phát triển bền vững bắt đầu từ lòng đất và từ lòng người. Từ người cày có ruộng đến nhà quản lý, từ nông dân có tri thức đến người dân có dữ liệu và có quyền quyết định tương lai của mình, đó chính là bản sắc, tầm nhìn và sứ mệnh của ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam.

Thay mặt lãnh đạo Bộ, Bộ trưởng Trần Đức Thắng bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến Đảng, Nhà nước đã luôn quan tâm, chỉ đạo, định hướng và động viên ngành trong mọi giai đoạn phát triển; các thế hệ đi trước - những người đã đặt nền móng vững chắc cho ngành; toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong toàn ngành - những người đang ngày đêm nỗ lực, sáng tạo, cống hiến cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp xanh, kinh tế sinh thái và bảo vệ môi trường; các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và đối tác phát triển đã luôn đồng hành, chia sẻ niềm tin và khát vọng cùng ngành trong suốt 80 năm qua.

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu chiến lược quốc gia, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ảnh: Tùng Đinh.Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu chiến lược quốc gia, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ảnh: Tùng Đinh.

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu chiến lược quốc gia, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ảnh:Tùng Đinh.

Hướng tới tương lai, ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi xanh của đất nước với các mục tiêu: Phát triển công nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, công dân văn minh; bảo vệ, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường quốc gia; góp phần xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững và hạnh phúc.

Kết thúc bài phát biểu, Bộ trưởng Trần Đức Thắng gửi lời chúc mừng Lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam thành công tốt đẹp, đồng thời chúc sức khỏe, bình an và hạnh phúc đến các đồng chí lãnh đạo, đại biểu, khách quý và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn ngành.

Nguồn: https://mae.gov.vn

 

Gala kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường

 

Chuẩn hóa quy trình kỹ thuật quan trắc, cảnh báo và dự báo nguồn nước

Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành Thông tư số 61/2025/TT-BNNMT quy định định mức kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt động quan trắc tài nguyên nước, cảnh báo và dự báo nguồn nước.

Chuẩn hóa và số hóa toàn bộ quy trình kỹ thuật

Với việc ban hành Thông tư số 61/2025/TT-BNNMT, lần đầu tiên hoạt động quan trắc tài nguyên nước có bộ định mức thống nhất, trở thành căn cứ bắt buộc trong lập dự toán, đấu thầu, đặt hàng dịch vụ công và đánh giá hiệu quả đầu tư. Thông tư không chỉ làm rõ cơ sở xác định đơn giá và ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ chuyên môn, mà còn là công cụ kỹ thuật để các cơ quan quản lý, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ triển khai đồng bộ, minh bạch và hiệu quả các hoạt động quan trắc, cảnh báo và dự báo, góp phần trực tiếp đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia.

Thông tư 61/2025/TT-BNNMT phù hợp với định hướng quản trị tài nguyên nước chủ động theo Luật Tài nguyên nước 2023. Ảnh:Minh Đăng.

Một trong những điểm nổi bật của Thông tư 61/2025/TT-BNNMT là việc thiết lập hệ thống định mức chi tiết cho từng bước trong quy trình quan trắc: từ khảo sát vị trí, lắp đặt thiết bị, thu thập và truyền dẫn dữ liệu, đến xử lý, kiểm định và dự báo nguồn nước.Thông tư không dừng lại ở các nguyên tắc chung mà quy định chuẩn kỹ thuật cụ thể cho từng loại trạm quan trắc (tự động, bán tự động, thủ công) và từng loại thông số quan trắc (lưu lượng, mực nước, chất lượng nước, độ mặn, xâm nhập mặn…).

Đặc biệt, đây là lần đầu tiên yêu cầu bắt buộc ứng dụng công nghệ số và mô hình dự báo hiện đại. Dữ liệu quan trắc phải được truyền tải theo thời gian thực, tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia và phục vụ trực tiếp cho các kịch bản điều tiết nguồn nước. Thông tư cũng quy định rõ hệ số điều chỉnh định mức theo vùng địa lý, điều kiện thủy văn, hải văn và mức phát triển kinh tế - xã hội, giúp vừa đảm bảo linh hoạt vừa duy trì sự chuẩn hóa kỹ thuật.

Tăng cường minh bạch và hiệu quả sử dụng ngân sách

Trước đây, chi phí quan trắc tài nguyên nước thường được tính theo kinh nghiệm, dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa các đơn vị và khó khăn trong thẩm định, kiểm soát ngân sách. Thông tư 61/2025/TT-BNNMT đã thiết lập phương pháp xác định định mức rõ ràng cho nhân công, thiết bị, vật tư và chi phí vận hành, loại bỏ cơ chế “xin - cho” trong lập dự toán.

Các định mức này trở thành cơ sở pháp lý cho việc đấu thầu và đặt hàng dịch vụ công theo Luật Đấu thầu, đồng thời mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp đủ năng lực tham gia cung cấp dịch vụ, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhờ đó, ngân sách nhà nước được sử dụng đúng mục tiêu, đúng định mức và dễ dàng đánh giá hiệu quả dựa trên kết quả thực tế.

Lần đầu tiên hoạt động quan trắc tài nguyên nước có bộ định mức thống nhất, trở thành căn cứ bắt buộc trong lập dự toán, đấu thầu, đặt hàng dịch vụ công và đánh giá hiệu quả đầu tư. Ảnh:Tiến Hạnh.

Hài hòa với chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu cảnh báo sớm

Thông tư 61/2025/TT-BNNMT không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp lý trong nước mà còn hướng đến hội nhập với tiêu chuẩn quốc tế, tương tự như các quốc gia phát triển trong lĩnh vực tài nguyên nước. Việc áp dụng mô hình dự báo số, hệ thống cảm biến tự động, đo trực tuyến theo thời gian thực và quản trị dữ liệu tập trung là xu hướng chung trên thế giới.

Dữ liệu quan trắc được sử dụng trực tiếp để cung cấp cảnh báo sớm về hạn hán, lũ lụt, suy giảm mực nước hay ô nhiễm nguồn nước, giúp cơ quan điều hành chủ động triển khai phương án điều tiết hồ chứa, phân phối nước cho các ngành sản xuất trọng yếu và bảo vệ nguồn nước sinh hoạt. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đối mặt với biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước xuyên biên giới ngày càng tăng.

Trong lộ trình triển khai Luật Tài nguyên nước 2023, Thông tư 61/2025/TT-BNNMT là cơ sở quan trọng để cụ thể hóa các quy định về kịch bản nguồn nước, phân bổ nước theo thứ tự ưu tiên và xây dựng hệ thống giám sát quốc gia. Văn bản này tạo hành lang pháp lý để dữ liệu quan trắc trở thành căn cứ bắt buộc trong mọi quyết định quản lý nguồn nước, từ cấp bộ đến địa phương.

Lần đầu tiên Thông tư 61/2025/TT-BNNMT tích hợp đầy đủ các yếu tố công nghệ số, mô hình dự báo hiện đại, cùng yêu cầu xây dựng nền quản trị dựa trên dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) và kết nối liên thông giữa các lĩnh vực: nông nghiệp, thủy điện, đô thị, công nghiệp. Thông tư phù hợp với định hướng quản trị tài nguyên nước chủ động theo Luật Tài nguyên nước 2023.

 

Nguồn: https://mae.gov.vn/tai-nguyen-nuoc/chuan-hoa-quy-trinh-ky-thuat-quan-trac-canh-bao-va-du-bao-nguon-nuoc-20166.htm

 

Chuẩn hóa quy trình kỹ thuật quan trắc, cảnh báo và dự báo nguồn nước

 

Quy hoạch thủy lợi cho 4 triệu ha lưu vực sông Cửu Long

  

Chọn cỡ chữ   

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 2307/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo Quy hoạch, phạm vi điều chỉnh bao trùm toàn bộ địa giới hành chính vùngĐồng bằng sông Cửu Long, bao gồm thành phố Cần Thơ, các tỉnh Vĩnh Long, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và một phần tỉnh Tây Ninh, với tổng diện tích khoảng 4 triệu ha (không bao gồm các đảo). Đây là khu vực có vai trò chiến lược đối với an ninh lương thực quốc gia, phát triển kinh tế nông nghiệp và xuất khẩu thủy sản.

Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng đến năm 2030, bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người dân. Ảnh: Minh Anh.Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng đến năm 2030, bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người dân. Ảnh: Minh Anh.

Chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu

Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch nhằm chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu để cấp nước, tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước bền vững cho dân sinh và các ngành kinh tế; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất một cách linh hoạt; nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, sẵn sàng ứng phó với trường hợp bất lợi nhất; đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường; góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, giữ vững quốc phòng, an ninh. 

Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050 bảo đảm nguồn nước bền vững phục vụ sản xuất và đời sống trong mọi điều kiện bất lợi; giảm thiểu thấp nhất thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Ảnh: Minh Anh.Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050 bảo đảm nguồn nước bền vững phục vụ sản xuất và đời sống trong mọi điều kiện bất lợi; giảm thiểu thấp nhất thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Ảnh: Minh Anh.

Trên cơ sở đó, Quy hoạch đề ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2030, tập trung vào bốn nhóm nhiệm vụ trọng tâm:

Thứ nhất, về cấp nước và tưới tiêu, Quy hoạch phấn đấu bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người và đáp ứng nhu cầu nước cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thông qua hệ thống công trình thủy lợi. Đặc biệt, mục tiêu ưu tiên là bảo đảm cấp nước chủ động cho khu vực nông thôn và sản xuất nông nghiệp, kể cả trong điều kiện hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tương tự giai đoạn 2015 - 2016; đến năm 2030 phải giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu nước sinh hoạt tại các vùng chịu ảnh hưởng nặng nề.

Thứ hai, về hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất, Quy hoạch đặt mục tiêu nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới các công trình thủy lợi, hoàn thiện hệ thống kênh rạch kết hợp với giao thông nội đồng. Qua đó, chủ động tưới, tiêu và điều tiết nước mặn - ngọt cho khoảng một triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển nông nghiệp bền vững.

Thứ ba, về tiêu thoát nước và chống ngập úng, Quy hoạch yêu cầu chủ động tiêu thoát nước ra các sông trục chính, mở rộng diện tích tiêu bằng động lực để bảo vệ vùng trũng thấp phục vụ dân sinh và sản xuất với tần suất từ 5% đến 10%. Đồng thời, bảo đảm tiêu thoát nước cho 1,6 triệu ha lúa 2 - 3 vụ, 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái, 0,21 triệu ha cây hàng năm và 0,8 triệu ha nuôi trồng thủy sản; đáp ứng yêu cầu tiêu thoát cho các khu đô thị và khu công nghiệp.

Thứ tư, về phòng chống thiên tai và kiểm soát mặn, Quy hoạch hướng đến phòng chống ngập úng với tần suất 1% cho các đô thị trọng điểm như Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp. Cùng với đó, dành từ 7% đến 10% diện tích đất đô thị để làm không gian trữ nước kết hợp cảnh quan sinh thái; chủ động kiểm soát mặn trên khoảng 1,35 triệu ha đất nông nghiệp thông qua các điểm khống chế mặn với ngưỡng từ 1g/l đến 4g/l, nhằm bảo đảm an toàn sản xuất và ổn định sinh kế của người dân.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch đưa ra các nhóm giải pháp đồng bộ, bao gồm phân vùng sinh thái, xác định các điểm kiểm soát mặn, xây dựng hệ thống công trình thủy lợi và triển khai các giải pháp phi công trình nhằm nâng cao tính chủ động của toàn vùng.

Quy hoạch đưa ra giải pháp thực hiện các mục tiêu trong đó có việc phân vùng quy hoạch, điểm khống chế mặn; giải pháp công trình; giải pháp phi công trình.

 Tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng tới bảo đảm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh trong mọi tình huống bất lợi, giảm thiểu thiệt hại cho đời sống và sản xuất của người dân do tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn gây ra ở mức thấp nhất. Bảo đảm đầu tư đồng bộ, khép kín các hệ thống công trình thủy lợi từ đầu mối đến nội đồng, giải quyết cơ bản hiện tượng ngập úng do lũ, mưa và triều cường cho các khu vực đô thị bằng các giải pháp thủy lợi... 

Ba vùng sinh thái

Về phân vùng quy hoạch sẽ bao gồm: vùng sinh thái ngọt; vùng sinh thái ngọt - lợ và vùng sinh thái mặn với các giải pháp công trình tương ứng. 

Trong đó, vùng sinh thái ngọt với diện tích 1,9 triệu ha bao gồm một phần của hệ thống thủy lợi Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bắc Vàm Nao, Nam Vàm Nao, vùng Tây sông Hậu, Bắc Vĩnh An, U Minh Hạ, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần Thơ, Cà Mau. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, rau màu và thủy sản nước ngọt.

Giải pháp công trình là tập trung giải pháp kiểm soát lũ tràn biên giới từ Campuchia vào Việt Nam tại vùng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; lũ trên dòng chính sông Tiền, sông Hậu; tăng khả năng tiêu, thoát lũ nội đồng. Đồng thời tăng cường cấp nước từ sông chính vào các khu vực xa sông gần biển, các khu vực thiếu nước ngọt; xây dựng hệ thống cống lớn đầu kênh, cống cửa sông, cống dưới đê thành các ô bao lớn để chủ động chống ngập úng, tiêu, thoát nước; nạo vét kênh, rạch tăng khả năng cấp, tiêu, thoát nước.

Công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé. Ảnh: Nguyễn Thủy.Công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Vùng sinh thái ngọt - lợ có diện tích 1,35 triệu ha bao gồm các hệ thống thủy lợi Nhật Tảo - Tân Trụ, Gò Công, Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Long Phú - Tiếp Nhật, U Minh Thượng, một phần của Tứ Giác Long Xuyên, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, tôm - lúa. Các giải pháp thủy lợi cần linh hoạt phục vụ chuyển đổi sản xuất, phù hợp với điều kiện nguồn nước.

Giải pháp công trình là hoàn thiện khép kín hệ thống thủy lợi chủ động cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái. Hoàn thiện, khép kín các hệ thống thủy lợi, xây dựng các công trình kiểm soát mặn.

Vùng sinh thái mặn với diện tích 0,75 triệu ha vùng ven biển thuộc các tỉnh/thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này tập trung phục vụ cho nuôi trồng thủy sản với các hình thức: thâm canh, quảng canh cải tiến, tôm - rừng.

Giải pháp công trình là hoàn thiện hệ thống thủy lợi để chủ động điều tiết nguồn nước mặn - ngọt, kiểm soát triều cường; hoàn thiện các ô bao thủy lợi để bảo vệ khu vực sản xuất; tăng cường trữ nước trong hệ thống kênh, rạch; cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các khu vực; đề xuất giải pháp cấp nước mặn từ biển. Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chắn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển...

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 1g/l phục vụ cấp nước sinh hoạt và cây ăn trái:trên sông Vàm Cỏ Tây tại cống Bắc Đông; trên sông Tiền tại đầu kênh Nguyễn Tấn Thành; trên sông Hàm Luông tại An Hiệp; trên sông Cổ Chiên tại vị trí hợp lưu với sông Măng Thít; trên sông Hậu tại kênh Cái Cui; trên sông Cái Lớn tại cầu Cái Tư.

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 4g/l ngưỡng mặn tối đa phục vụ sản xuất lúa:trên sông Tiền tại cống Xuân Hòa; trên sông Hàm Luông tại Mỹ Hóa; trên sông Cổ Chiên tại cống Vũng Liêm; trên sông Hậu tại kênh Cái Côn; trên sông Vàm Cỏ Tây tại Tân An.

Nguồn: bonongnghiepvamoitruong.vn

 

Quy hoạch thủy lợi cho 4 triệu ha lưu vực sông Cửu Long

 
Trang 12345678910

Trang 1 trong tổng số 45 trang

Video Sự kiện

logo Đoàn

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Nông nghiệp và môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay1914
mod_vvisit_counterTrong tuần7542
mod_vvisit_counterTrong tháng65098
mod_vvisit_counterTất cả8001894

We have: 8 guests online