Ngày 19/11, nghiên cứu của Viện Khoa học Hàng hải Australia tiết lộ một số khu vực của Rạn san hô Great Barrier đang phải chịu tỷ lệ tử vong cao nhất trong lịch sử, trong khi các nhà khoa học lo ngại phần còn lại của rạn san hô này có nguy cơ chịu chung số phận.
Rạn san hô Great Barrier ở Australia bị tẩy trắng nghiêm trọng. Ảnh: AFP/TTXVN
Rạn san hô Great Barrier, thường được gọi là cấu trúc sống lớn nhất thế giới, trải dài 2.300 km (1.400 dặm) và là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển đặc biệt. Tuy nhiên, các sự kiện tẩy trắng hàng loạt lặp đi lặp lại trong những năm qua đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho khu vực.
Tẩy trắng san hô xảy ra khi nhiệt độ nước tăng cao khiến san hô thải ra tảo (zooxanthellae), loại tảo mà chúng dựa vào làm thức ăn. Nếu không có tảo, san hô sẽ chuyển sang màu trắng và nếu nhiệt độ cao kéo dài, chúng có thể chết.
Theo đó, các cuộc khảo sát 12 rạn san hô trong khu vực đã phát hiện ra tỷ lệ tử vong lên tới 72%. Con số đáng báo động này được cho là do sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm một mùa hè san hô bị tẩy trắng hàng loạt, hai cơn bão và lũ lụt nghiêm trọng.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng ở một khu vực phía Bắc Rạn san hô Great Barrier, khoảng 1/3 san hô cứng đã chết, đánh dấu mức suy giảm hàng năm lớn nhất về sức khỏe của san hô trong 39 năm theo dõi của Chính phủ Australia.
Sự kiện tẩy trắng hàng loạt năm nay đánh dấu lần thứ 5 trong vòng 8 năm qua. Một trong những loại san hô bị ảnh hưởng nặng nề nhất là “Acropora”, tuy phát triển nhanh nhưng cũng là một trong những loài đầu tiên bị tẩy trắng và tử vong dưới tác động của nhiệt độ cực cao.
Nhà nghiên cứu Mike Emslie đã mô tả mùa hè năm ngoái là một trong những sự kiện tẩy trắng san hô nghiêm trọng nhất mà Great Barrier từng phải trải qua, với mức độ vượt qua các lần trước đó.
Ông Richard Leck, người đứng đầu bộ phận đại dương của Tổ chức Quốc tế bảo tồn thiên nhiên (WWF) tại Australia, đã cảnh báo rằng mặc dù Rạn san hô Great Barrier có khả năng phục hồi, tuy nhiên không đồng nghĩa với việc có thể chịu được các sự kiện tẩy trắng liên tục.
Theo ông Leck, khu vực được khảo sát tương đối nhỏ, với báo cáo đầy đủ, dự kiến công bố vào năm tới, sẽ cho thấy tỷ lệ tử vong tương tự trên toàn bộ rạn san hô. Ông cho rằng Chính phủ Australia cần đặt ra các mục tiêu giảm phát thải tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu giảm ít nhất 90% lượng khí thải so với mức năm 2005 vào năm 2035.
Australia, một trong những nước xuất khẩu than và khí đốt lớn nhất thế giới, gần đây mới đặt ra mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon, nhưng các nhà môi trường cho rằng cần có hành động quyết liệt hơn để ngăn chặn sự suy thoái thêm của rạn san hô và các hệ sinh thái khác.
Nguồn: baotintuc.vn
|
Việc giám sát chất lượng nước hiệu quả là điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người và thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học tập trung vào nước
Thế giới đã trải qua nhiều thập kỷ quản lý sai nguồn dự trữ nước ngọt, cản trở tiến trình hướng tới các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG).
Theo báo cáo gần đây của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), khoảng 50% các quốc gia trên toàn cầu có một hoặc nhiều loại hệ sinh thái liên quan đến nước ngọt - sông, hồ, đất ngập nước hoặc tầng chứa nước ngầm - đang trong tình trạng suy thoái. Các vùng nước bị suy thoái là những vùng nước bị ô nhiễm hoặc có mực nước thấp.
Khôi phục và bảo vệ hệ sinh thái nước ngọt là một nội dung quan trọng của Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh-Montreal, thỏa thuận trên toàn hành tinh nhằm ngăn chặn và đảo ngược tình trạng mất đa dạng sinh học. Khung này bao gồm 23 mục tiêu được thiết lập để bảo vệ thế giới tự nhiên và sẽ đến hạn vào năm 2030.
Bà Sinikinesh Beyene Jimma thuộc Chi nhánh Biển và Nước ngọt tại UNEP cho biết: "Sông là một trong những hệ sinh thái đa dạng nhất trên hành tinh. Do tầm quan trọng của sông ngòi và các hệ sinh thái nước ngọt khác đối với an ninh lương thực, xây dựng khả năng phục hồi và đa dạng sinh học của thế giới, việc sử dụng và quản lý bền vững chúng là rất quan trọng để đảm bảo duy trì các dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu và đáp ứng các cam kết của Khung đa dạng sinh học toàn cầu”.
Việc giám sát chất lượng nước hiệu quả là điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người và thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học tập trung vào nước
Khi đại diện từ 196 quốc gia thảo luận về việc thực hiện Khung đa dạng sinh học toàn cầu tại Hội nghị lần thứ 16 Các bên tham gia Công ước Liên hợp quốc về đa dạng sinh học (COP16) tại Cali, Colombia, ngày càng có nhiều sự công nhận về giá trị của nước ngọt và nhu cầu tính đến giá trị này trong cả chính sách quốc gia và địa phương cũng như các quyết định tài chính.
Sau đây là 5 giải pháp các quốc gia có thể sử dụng nước ngọt để đạt được các mục tiêu đa dạng sinh học và phát triển bền vững toàn cầu của mình.
Triển khai các giải pháp dựa vào thiên nhiên liên quan đến nước
Các giải pháp dựa vào thiên nhiên liên quan đến nước (NbS), chẳng hạn như mái nhà "xanh" phủ đầy cây, có thể giúp quản lý nước mưa, giảm lũ lụt đô thị và cải thiện chất lượng nước, thường có chi phí thấp hơn so với cơ sở hạ tầng xám, như đường ống. Các giải pháp này cũng mang lại lợi ích cho con người và đa dạng sinh học.
Với sự hỗ trợ của dự án Thành phố phục hồi thế hệ của UNEP, các thành phố đang áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên để phục hồi các tuyến đường thủy đô thị. Ví dụ, thành phố Barranquilla của Colombia đang khôi phục lại dòng suối Leon bị ô nhiễm, chảy qua trung tâm thành phố, với sự giúp đỡ của các cộng đồng sống dọc bờ sông. Trong khi đó, Sirajganj ở Bangladesh đang tạo ra một hành lang xanh để tăng cường đa dạng sinh học xung quanh con sông của thành phố.
Đầu tư vào việc giám sát chất lượng nước
Hiện nay, 122 triệu người trên khắp thế giới đang phụ thuộc vào nguồn nước mặt chưa qua xử lý và có khả năng không an toàn. Đến năm 2030, 4,8 tỷ người có thể phải đối mặt với rủi ro về sức khỏe và sinh kế nếu việc giám sát chất lượng nước không được cải thiện. Việc giám sát chất lượng nước hiệu quả là điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người và thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học tập trung vào nước trên toàn cầu.
Những ví dụ điển hình về điều đó đến từ Sierra Leone và Zambia, nơi đang tích hợp dữ liệu khoa học công dân vào hoạt động giám sát chất lượng nước quốc gia, thu hẹp khoảng cách dữ liệu và kết nối các cộng đồng bị ảnh hưởng với các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước.
Tiếp thu kiến thức truyền thống của người bản địa
Kiến thức truyền thống của người bản địa đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và khôi phục đa dạng sinh học trên toàn thế giới và việc đưa kiến thức này vào các hoạt động bảo tồn hiện đại là rất quan trọng. Ví dụ, cộng đồng người bản địa P'ganyaw (Karen) dọc theo Sông Mae Ngao của Thái Lan đã tạo ra hơn 50 "khu bảo tồn sông cấm đánh bắt" - các khu vực được bảo vệ cấm các hoạt động khai thác để tăng trữ lượng cá.
Các khu bảo tồn nhỏ dựa vào cộng đồng này thiết lập ranh giới đánh bắt rõ ràng dọc theo sông và thực thi các hình phạt đối với hành vi vi phạm. Vì các hệ sinh thái nước ngọt được kết nối với nhau nên mạng lưới các khu bảo tồn này là mô hình để ngăn ngừa tình trạng mất đa dạng sinh học tiếp diễn. Chương trình hỗ trợ SDG 6.6.1 của UNEP, tập trung vào quản lý lưu vực nước, nhấn mạnh việc sử dụng kiến thức truyền thống này thông qua việc giám sát và đánh giá những thay đổi trong hệ sinh thái nước ngọt.
Khai thác các công cụ mới để quản lý nước ngọt
Có một số nguồn lực có thể giúp các quốc gia quản lý hồ, sông và tầng chứa nước của họ. Ví dụ, Freshwater Explorer và Global Wetlands Watch của UNEP theo dõi tình trạng của các hệ sinh thái nước ngọt trên toàn thế giới. Các công cụ này nhấn mạnh nhu cầu quản lý nước để bảo vệ các hệ sinh thái nước ngọt.
Ngoài ra, Chương trình hỗ trợ quản lý tài nguyên nước tích hợp của UNEP có thể hướng dẫn các chính phủ trong nỗ lực quản lý nước tốt hơn và đạt được các mục tiêu phát triển của họ.
Áp dụng quản lý tài nguyên nước tích hợp
Việc quản lý phối hợp các hệ sinh thái nước ngọt, bao gồm thông qua quy trình được gọi là quản lý tài nguyên nước tích hợp, có thể xây dựng khả năng phục hồi trước các thảm họa liên quan đến khí hậu, như hạn hán. Ví dụ, tại Somalia đang bị hạn hán tàn phá, Liên minh Châu Âu và UNEP đang giúp các cộng đồng đào giếng khoan, phục hồi các giếng nông để tưới tiêu và đưa vào sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt mang lại hiệu quả cao cho cây trồng. Phương pháp tiếp cận toàn diện này giúp duy trì các nguồn nước sẵn có và ngăn ngừa tình trạng di dời.
Hơn 90% các thảm họa tự nhiên đều liên quan đến nước theo một cách nào đó. Các chuyên gia cho biết, việc áp dụng quản lý tài nguyên nước tích hợp là rất quan trọng để giảm tần suất và quy mô của những thảm họa này.
Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn
|
Đất đai nứt nẻ do hạn hán tại Ouled Essi Masseoud, Maroc. Ảnh: AFP/TTXVN
Lần đầu tiên vòng tuần hoàn nước trên thế giới rơi vào trạng thái mất cân bằng, làm dấy lên lo ngại xảy ra thảm họa nước tàn phá các nền kinh tế, quá trình sản xuất lương thực và cuộc sống của con người.
Thông tin trên do Ủy ban Kinh tế Toàn cầu về Nước - một tổ chức bao gồm các nhà lãnh đạo và chuyên gia thế giới - công bố ngày 16/10.
Theo đài truyền hình CNN, vòng tuần hoàn nước là một hệ thống phức tạp mô tả việc di chuyển của nước quanh Trái Đất. Nước bốc hơi từ mặt đất - bao gồm hồ, sông và thực vật - và bốc lên bầu khí quyển, tạo thành những dòng hơi nước lớn có thể di chuyển quãng đường dài, rồi nguội đi, ngưng tụ và cuối cùng rơi trở lại mặt đất dưới dạng mưa hoặc tuyết.
Sự gián đoạn trong quy trình tuần hoàn nước có thể gây nguy hại cho cuộc sống con người. Ước tính gần 3 tỷ người phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước. Cây trồng khô héo dần, các thành phố đang bị nhấn chìm trong khi nguồn nước ngầm bên dưới khô cạn.
Các chuyên gia cảnh báo hậu quả từ thực trạng này sẽ càng thảm khốc hơn nếu không có hành động khẩn cấp. Báo cáo cho thấy cuộc khủng hoảng nước đe dọa hơn 50% sản lượng lương thực toàn cầu và có nguy cơ làm giảm trung bình 8% GDP của các quốc gia vào năm 2050, với mức thiệt hại cao hơn nhiều, lên tới 15% ở các nước thu nhập thấp.
Đất đai nứt nẻ do hạn hán tại Ouled Essi Masseoud, Maroc. Ảnh: AFP/TTXVN
Johan Rockström, đồng chủ tịch Ủy ban Toàn cầu về Kinh tế Nước kiêm tác giả báo cáo, cho biết: “Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta đang đẩy chu trình nước toàn cầu vào tình trạng mất cân bằng. Không còn có thể dựa vào lượng mưa là nguồn cung cấp nước ngọt nữa”.
Báo cáo cũng phân biệt giữa “nước xanh dương” - nước trong hồ, sông và tầng ngậm nước, và “nước xanh lục” – nước lưu trữ trong đất và thực vật.
Các tác giả chỉ ra mặc dù từ lâu, nguồn cung nước xanh lục bị phớt lờ nhưng nó vẫn đóng vai trò quan trọng đối với vòng tuần hoàn nước vì lượng nước này vẫn quay trở lại bầu khí quyển khi thực vật giải phóng hơi nước, tạo ra khoảng một nửa tổng lượng mưa trên đất liền.
Trong báo cáo, các chuyên gia cũng cho rằng có mối liên hệ sâu sắc giữ sự gián đoạn trong quy trình tuần hoàn nước với biến đổi khí hậu.
Duy trì nguồn cung nước xanh lục ổn định là rất quan trọng để hỗ trợ thảm thực vật vốn có thể hấp thu carbon. Nhưng những thiệt hại mà con người gây ra, bao gồm việc phá hủy các vùng đất ngập nước và phá rừng, đang làm cạn kiệt các bể chứa carbon này và đẩy nhanh hiện tượng nóng lên toàn cầu. Tiếp đó, sức nóng do biến đổi khí hậu gây ra đang làm khô bề mặt, giảm độ ẩm và tăng nguy cơ hỏa hoạn.
Cuộc khủng hoảng càng trở nên cấp bách hơn bởi nhu cầu rất lớn về nước. Báo cáo tính toán rằng, trung bình mọi người cần tối thiểu khoảng 4.000 lít mỗi ngày để có một “cuộc sống ổn định”, vượt xa mức 50 đến 100 lít mà Liên hợp quốc cho là cần thiết cho các nhu cầu cơ bản, và nhiều hơn mức mà hầu hết các khu vực nhận được từ nguồn cung địa phương.
Theo ông Richard Allan, giáo sư khoa học khí hậu tại Đại học Reading (Anh), báo cáo ngày 16/10 vẽ ra một bức tranh khắc nghiệt về sự gián đoạn do con người gây ra đối với vòng tuần hoàn nước toàn cầu, nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất duy trì sinh kế của con người.
Ông Allan cho rằng các hoạt động của con người đang làm thay đổi kết cấu đất đai và không khí phía trên, làm khí hậu nóng lên, tăng cường các hiện tượng cực đoan ẩm ướt và khô hạn.
Theo chuyên gia này, khủng hoảng nói trên chỉ có thể được giải quyết thông qua việc quản lý tài nguyên thiên nhiên tốt hơn và cắt giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm làm nóng hành tinh.
Các chính phủ trên thế giới đều phải công nhận vòng tuần hoàn nước là “lợi ích chung” và cùng giải quyết vấn đề này. Các quốc gia đều phụ thuộc vào nhau, không chỉ thông qua các hồ và sông trải dài biên giới mà còn vì nước trong khí quyển. Điều này có nghĩa là quyết định được đưa ra ở một quốc gia này có thể làm gián đoạn lượng mưa ở một quốc gia khác.
Ngozi Okonjo-Iweala, Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là đồng chủ tịch ủy ban công bố báo cáo, cho biết: “Cuộc khủng hoảng nước toàn cầu là một thảm kịch nhưng cũng là cơ hội để chuyển đổi nền kinh tế nước”. Bà nói thêm rằng việc đánh giá lại giá trị của nguồn nước một cách hợp lý là điều cần thiết để nhận ra sự khan hiếm của nước và nhiều lợi ích mà nó mang lại.
Nguồn tin: Bảo Hà/Báo Tin tức
|
Ô nhiễm, suy thoái môi trường sống, biến đổi khí hậu và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang khiến hơn 60% lượng nước mặt của châu Âu ở tình trạng xấu.
Nguồn nước mặt là nguồn nước tồn tại trên bề mặt Trái Đất như ao, hồ, sông, suối....
Trong báo cáo được công bố ngày 15/10, Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA) đã phân tích 120.000 vùng nước mặt và 3,8 triệu km2 khu vực nước ngầm tại 19 quốc gia của Liên minh châu Âu (EU) và Na Uy. Kết quả cho thấy chỉ có 37% các vùng nước mặt của châu Âu đạt tiêu chuẩn về chất lượng sinh thái, tức ở mức "tốt" hoặc "cao". Đây là con số đáng lo ngại cho thấy tình trạng suy thoái nghiêm trọng của các hệ sinh thái sông, hồ và biển. Nguyên nhân chủ yếu do ô nhiễm không khí, như việc đốt than và khí thải từ ô tô, cũng như các hoạt động nông nghiệp, nơi chất thải đổ ra làm ô nhiễm đất.
Ảnh minh họa: CNN
Dữ liệu do các quốc gia thành viên EU báo cáo trong giai đoạn 2015-2021 cũng cho thấy chỉ có 29% các vùng nước mặt đạt tiêu chuẩn về chất lượng hóa học ở mức "tốt", nghĩa là không bị ô nhiễm quá mức từ các chất dinh dưỡng hóa học và các chất độc hại như "hóa chất vĩnh cửu" PFAS và vi nhựa.
Nguồn nước ngầm của châu Âu - nguồn cung cấp nước chính cho lục địa này - có kết quả khả quan hơn, với 77% vùng nước ngầm đạt tiêu chuẩn hóa học ở mức "tốt".
EEA cho biết các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm hạn hán và lũ lụt khắc nghiệt, và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang gây sức ép lên các hồ, sông, vùng nước ven biển và nước ngầm của châu Âu ở mức "chưa từng có". Cơ quan này khuyến cáo ngành nông nghiệp châu Âu cần tăng cường sử dụng các phương thức canh tác theo hướng hữu cơ và thúc đẩy nông nghiệp sinh thái bền vững, kết hợp với sự thay đổi trong thói quen ăn uống của người dân. Các chính phủ cũng được khuyến nghị ưu tiên giảm lượng nước tiêu thụ và khôi phục hệ sinh thái, đặc biệt cần giảm 50% việc sử dụng thuốc trừ sâu từ nay đến năm 2030.
Nguồn: Đài Trang (TTXVN)
|
Thứ hai, 14 Tháng 10 2024
Mực nước biển dâng cao đang gây ra mối đe dọa toàn cầu, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến điều này và chúng ta có thể ứng phó như thế nào?
Băng trôi gần đảo Kulusuk, Greenland. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo Đài phát thanh Quốc tế Deutsche Welle (Đức), mực nước biển dâng cao đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với cuộc sống trên hành tinh, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Câu hỏi đặt ra là: Biến đổi khí hậu có phải là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này?
Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã nhấn mạnh rằng “đại dương đang tràn bờ” trong chuyến thăm Tonga gần đây, chỉ ra rằng nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Nam Thái Bình Dương, đang phải đối mặt với nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo các nghiên cứu, mực nước biển toàn cầu đã tăng nhanh hơn kể từ đầu thế kỷ 20, với tốc độ ngày càng gia tăng trong những thập kỷ gần đây. Từ năm 1880 đến nay, mực nước biển đã dâng cao hơn 20 cm, và các nhà khoa học dự đoán nếu không có biện pháp ngăn chặn, mức nước có thể tăng thêm từ 38 cm đến 56 cm vào năm 2100.
Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến các đảo nhỏ mà còn đe dọa gần 40% dân số thế giới sống gần các khu vực ven biển, với khoảng 900 triệu người đang sinh sống trong những khu vực dễ bị tổn thương. Những thành phố lớn như Cairo, Lagos, Los Angeles, Mumbai và London đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng liên quan đến xói mòn bờ biển, ngập lụt và bão tàn phá.
Nguyên nhân chính của sự gia tăng mực nước biển là hiện tượng nóng lên toàn cầu, chủ yếu do sự gia tăng khí nhà kính trong khí quyển. Các khí như carbon dioxide và mê-tan từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch làm nhiệt độ đại dương tăng lên. Từ năm 1970, đại dương đã hấp thụ khoảng 90% lượng khí thải từ sự nóng lên toàn cầu. Nhiệt độ đại dương năm 2023 được ghi nhận là mức cao nhất từ trước đến nay, làm cho nước biển giãn nở và tăng thể tích. Bên cạnh đó, sự tan chảy của băng ở Nam Cực và Greenland cũng góp phần làm mực nước biển dâng cao. Trung bình, mỗi năm có khoảng 150 tỷ tấn băng từ Nam Cực và 270 tỷ tấn từ Greenland bị mất do nhiệt độ tăng.
Các báo cáo gần đây còn cảnh báo về “điểm tới hạn” của khí hậu, khi mà nhiệt độ toàn cầu tăng vượt quá 1,5 độ C có thể dẫn đến sự tan chảy không thể đảo ngược của các tảng băng lớn, gây ra tác động nghiêm trọng đến mực nước biển. Những khu vực như đồng bằng châu thổ ven sông và các khu vực ven biển của các nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ và Trung Quốc đang ở trong tình trạng báo động cao.
Để đối phó với mực nước biển dâng cao, điều cần thiết là giảm nhanh chóng lượng khí thải. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là sự gia tăng mực nước biển ở một mức độ nào đó là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả khi thế giới ngừng phát thải khí nhà kính ngay lập tức, vẫn sẽ có độ trễ trong việc tác động của nóng lên toàn cầu đến nhiệt độ đại dương và băng tan.
Các quốc gia trên toàn cầu đang áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để thích ứng. Một số biện pháp đơn giản và dựa vào thiên nhiên bao gồm ngăn chặn xói mòn bờ biển bằng cách tái sinh rừng ngập mặn ở Cameroon hoặc xây dựng các bức tường chắn sóng biển ở Senegal. Đối với những khu vực dễ bị tổn thương như các đảo nhỏ, nhiều nơi đã thực hiện các giải pháp cực đoan hơn như di dời dân cư lên các vùng đất cao hơn như ở ở Fiji hoặc xây dựng các thành phố nổi ở Maldives và lấn biển ở Tuvalu.
Ngoài ra, việc hỗ trợ tài chính cho các quốc gia đang phát triển để ứng phó với tình trạng này cũng rất quan trọng. Những giải pháp toàn cầu cần được thực hiện đồng bộ và khẩn trương để bảo vệ không chỉ các cộng đồng ven biển mà còn cả môi trường sống của con người trên toàn cầu.
Nguồn: baotintuc.vn
|
|