Tin trong nước

Khánh thành Nhà máy xử lý nước sạch lớn nhất tỉnh Thừa Thiên- Huế

(TN&MT) - Nhà máy xử lý nước sạch (NMXLNS) Vạn Niên có công suất 120.000 m3/ngày đêm (giai đoạn 1 là 60.000 m3/ngày đêm), tổng mức đầu tư gần 800 tỉ đồng, là nhà máy nước sạch lớn nhất tỉnh và được ví như “trái tim” của hệ thống cấp nước Thừa Thiên- Huế.

Công ty CP Cấp nước Thừa Thiên- Huế (HueWACO) vừa tổ chức Lễ khánh thành NMXLNS Vạn Niên (phường Thủy Biều, TP. Huế).

Dự án được UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 1611/QĐ-UBND ngày 3/7/2020, phân kỳ thực hiện theo 2 giai đoạn, với tổng mức đầu tư là 794 tỉ đồng, giai đoạn 1 là 600,5 tỉ đồng; khởi công ngày 24/2/2021 do liên danh nhà thầu EPC TNG – Kobelco Eco Solutions Việt Nam thực hiện.

12.4

Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên

Sau hơn 3 năm triển khai, Nhà máy XLNS Vạn Niên đã chính thức vận hành, phát nước thương mại vào ngày 18/9/2023, đưa tổng công suất cấp nước sạch toàn tỉnh đạt 300.000 m3/ngày đêm.

NMXLNS Vạn Niên sử dụng công nghệ “bể lắng lọc thông minh, chất lượng cao, thân thiện môi trường”. Giải pháp công nghệ này giúp xử lý hiệu quả nguồn nước có độ đục cao đặc biệt vào mùa mưa lũ với độ đục sau lắng luôn dưới 0,5 NTU và chất lượng sau lọc có độ đục luôn dưới 0,02 NTU (thấp hơn 100 lần so với tiêu chuẩn Việt Nam), Fe, Mn dưới ngưỡng 0,001mg/l (thấp hơn tiêu chuẩn Việt Nam 300 lần)...

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Hải Minh ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của tập thể lãnh đạo, cán bộ, người lao động HueWACO và liên danh nhà thầu EPC; sự phối hợp các sở, ban, ngành liên quan để Dự án NMXLNS Vạn Niên hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo cấp nước an toàn, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh nhà. Phó Chủ tịch UBND tỉnh cũng đề nghị HueWACO tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả, xứng danh là đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

12.4.1

Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên sử dụng công nghệ “bể lắng lọc thông minh, chất lượng cao, thân thiện môi trường”

Dịp này, để quản lý, vận hành thông minh hệ thống cấp nước, HueWACO cũng khánh thành Trung tâm Vận hành tự động Hệ thống cấp nước toàn công ty. Trung tâm tích hợp hệ thống điều khiển tự động SCADA các nhà máy tại khu vực trung tâm TP. Huế, mạng lưới và các trạm quan trắc.

Lãnh đạo HueWACO cho hay sẽ tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 trong thời gian tới với việc tích hợp mở rộng cho khu vực phía Bắc và Nam của tỉnh, từng bước thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quản lý, hướng đến quản lý thông minh hệ thống cấp nước, phù hợp với định hướng xây dựng đô thị thông minh tỉnh.

Công ty CP Cấp nước Thừa Thiên- Huế (HueWACO), tiền thân là nhà máy nước Vạn Niên khởi công xây dựng năm 1909 và hoàn thành vào năm 1911, sớm nhất ở miền Trung. HueWACO là đơn vị được UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế giao nhiệm vụ cấp nước sạch trên địa bàn tỉnh không phân biệt đô thị hay nông thôn. Sự kiện khánh thành Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên đánh dấu cột mốc đặc biệt trong tiến trình phát triển 115 năm của HueWACO. Đến nay, HueWACO đã cấp nước sạch đảm bảo an toàn cho hơn 97 % người dân trên địa bàn toàn tỉnh.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Khánh thành Nhà máy xử lý nước sạch lớn nhất tỉnh Thừa Thiên- Huế

 

Nguồn nước ô nhiễm có thể gây tổn thất tới 3,5% GDP mỗi năm

Nguồn nước ô nhiễm ở Việt Nam có thể gây tổn thất ước tính tới 3,5% GDP/năm. Những thách thức nào đang đặt ra trong việc sử dụng hiệu quả và đảm bảo an ninh nguồn nước?Thiệt hại kinh tế khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm

Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới, nguồn nước ô nhiễm ở Việt Nam có thể gây tổn thất ước tính tới 3,5% GDP mỗi năm. Phát triển đô thị, xả nước thải công nghiệp chưa qua xử lý, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp và nhiều vấn đề khác đang gây ra những áp lực lớn không ngừng đối với các lưu vực sông. 

Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè từng đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề. Hơn 10 năm trước, TP Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn 8.600 tỷ đồng để cải tạo môi trường, hứa hẹn một không gian xanh mát giữa lòng đô thị. Thế nhưng, thực tế, nhiều đoạn dưới lòng kênh lại nhếch nhác, thường xuyên bốc mùi hôi thối.

Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè dài gần 10km, chảy qua nhiều quận đổ ra sông Sài Gòn. Con kênh dù đã được cải tạo, nhiều đoạn nhìn có vẻ đẹp tuy nhiên chất lượng nguồn nước lại bị ô nhiễm bởi toàn bộ lượng nước thải đô thị vẫn thải trực tiếp ra kênh rồi bơm thẳng ra sông Sài Gòn thông qua hệ thống cống ngầm dưới lòng kênh mà chưa được thu gom, xử lý theo đúng tiêu chuẩn.

Trong khi nguồn ngoại sinh suy giảm nghiêm trọng thì nguồn nội sinh lại ô nhiễm khiến việc cung cấp nguồn nước mặt cho hoạt động nông nghiệp đang tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng tiền ngân sách của các địa phương trong nhiều năm qua.

Theo PGS.TS Dương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học tài nguyên nước: ''Tôi cho rằng việc cải tạo các dòng sông chỉ giải quyết vấn đề thẩm mỹ còn về chất lượng cũng chỉ cải thiện trong 1-3 năm đầu tiên rồi sau đó lại gần như sẽ đâu vào đấy. Bởi bản chất các hệ thống thải ra sông không có gì thay đổi, chỉ có đường thoát thay đổi, lượng nước thải xả ra thì vẫn không thay đổi''.

Tình trạng tái ô nhiễm sau khi cải tạo vệ sinh không chỉ xảy ra ở kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè mà còn xuất hiện ở nhiều kênh khác trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Ngoài lãng phí khi phải tiếp tục xử lý ô nhiễm thì thực trạng này còn ảnh hưởng đến tài nguyên nước sông Sài Gòn.

Hầu hết các sông chính ở Việt Nam hiện nay đều đã và đang bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau, trong đó ô nhiễm chủ yếu các vùng trung và hạ du; khu vực tập trung đông dân cư và các khu công nghiệp, hiện tượng ô nhiễm diễn ra nghiêm trọng hơn.

Cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, nước ngọt không phải là vô hạn. Tổng lượng nước mặt của các lưu vực sông trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 840 tỷ m3/năm, nhưng chỉ có khoảng 37% là nước nội sinh nằm trong lãnh thổ, còn 63% là nước chảy vào từ các con sông qua các nước láng giềng. 

Hiện nay lượng nước ngoại sinh này đang suy giảm từng năm, khiến lượng nước mặt của Việt đang ngày càng cạn kiệt đến mức báo động. Trong khi đó việc sử dụng nguồn nước mặt trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải… chưa hiệu quả đang khiến cho tài nguyên này bị thất thoát và lãng phí.

Sử dụng nguồn nước chưa hiệu quả

Cống Cẩm Đình, huyện Phúc Thọ, Hà Nội, điểm dẫn nước từ sông Hồng vào sông Đáy, nước sông Hồng Cạn, khu vực cửa cống giờ là nơi để người dân đánh nốt những mẻ cá cuối trước khi thành những vũng nước tù.

Đầu vào không có nên trên hệ thống sông Đáy nguồn nước mặt đang suy giảm nghiêm trọng, hiện nay nhiều điểm đã trơ đáy. Cống Nhật Tựu, huyện Kim Bảng, Hà Nam, thời điểm này, khi bà con cần tưới dưỡng thì nguồn nước lấy từ sông vào lại đèn ngòm, nổi bọt trắng.

Trong khi nguồn ngoại sinh suy giảm nghiêm trọng thì nguồn nội sinh lại ô nhiễm khiến việc cung cấp nguồn nước mặt cho hoạt động nông nghiệp đang tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng tiền ngân sách của các địa phương trong nhiều năm qua. Chi phí đã lớn nhưng hầu hết các khoản thu từ việc sử dụng nguồn nước mặt trong hoạt động nông nghiệp lại không có.

Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà việc thất thoát các khoản phí từ nguồn nước mặt trong lĩnh vực giao thông vận tải hiện cũng được coi là rất lớn. Mỗi năm, trung bình số hàng hóa đi bằng đường thủy từ khu vực ĐBSCL đến TP Hồ Chí Minh để xuất khẩu qua các cảng nước sâu tương đương gần 23 triệu tấn. Chi phí để vận chuyển hàng hóa nếu đi bằng đường thủy chỉ mất 170.000 đồng/tấn, trong khi đó nếu đi bằng đường bộ sẽ là hơn 500.000 đồng/tấn, cao gấp gần 3 lần nếu đi bằng đường thủy.

Rõ ràng, đi đường bộ sẽ phải chịu rất nhiều loại phụ phí phát sinh, cầu phà đường bộ, nhưng bằng đường thủy lại đang chưa bị thu phí vận tải trên hệ thống nước mặt. Việc chậm thu phí này sẽ làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.

Trong khi nhiều quốc gia bắt đầu phát kiến ra những công nghệ xử lý nước thải, lọc nước biển để chủ động tạo ra nguồn nước ngọt thì chúng ta còn đang loay hoay với bài toán sử dụng như thế nào cho hiệu quả tài nguyên nước.

Tình trạng sử dụng tài nguyên nước chưa hiệu quả, nguồn nước liên tục bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng cùng với ảnh hưởng của thiên tai, biến đổi khí hậu đã và đang gây sức ép không nhỏ đến đời sống người dân và tăng trưởng kinh tế.

Những năm gần đây, chỉ tính riêng lĩnh vực xử lý nước thải đô thị, dự tính từ năm 2015 đến năm 2025, Chính phủ cần đầu tư khoảng 8,3 tỷ USD. Những con số khổng lồ cho một quốc gia đang phát triển và cần nguồn lực lớn để hiện thực hóa rất nhiều mục tiêu trở thành một quốc gia phát triển bền vững.

Phục hồi nguồn nước bị suy thoái

Mạng lưới đường thủy của đồng bằng sông Cửu Long, tất cả dòng sông chính cùng các phụ lưu, hệ thống kênh, rạch chảy qua các khu công nghiệp, khu dân cư, các vùng tài nguyên tạo nên sự kết nối, mang lại những lợi ích thiết thực cho phát triển kinh tế. Đây chính là một trong những giá trị mà nguồn tài nguyên nước mang lại.
So với đường bộ, vận tải theo đường sông có khối lượng lớn, lịch trình ổn định và chi phí tiết kiệm hơn từ 30-40%, được đánh giá là chiếm ưu thế tuyệt đối trong các phương tiện vận tải hiện nay. Nếu như đường bộ bị giới hạn về tải trọng cầu, đường thì đường thủy đáp ứng được tất cả mặt hàng cồng kềnh, siêu trường, siêu trọng. Điều này cho thấy một phần giá trị của tài nguyên nước, từ đó đặt ra vấn đề bảo vệ và quản lý bền vững nguồn nước trước tình trạng các dòng sông bị ô nhiễm và suy thoái, cạn kiệt như hiện nay.

Thiếu sự kết nối, phối hợp chặt chẽ giữa các dự án liên quan đến xử lý ô nhiễm nguồn nước mặt đã dẫn tới kém hiệu quả trong việc khai thác và quản lý tài nguyên nước. Nguyên nhân chính là nguồn thải gây ô nhiễm vẫn chưa kiểm soát được triệt để.

Việt Nam là một trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó tài nguyên nước sẽ chịu những ảnh hưởng lớn nhất và sớm nhất do những diễn biến bất thường về lượng mưa và nước biển dâng. Sự phát triển bền vững của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có bảo đảm an ninh nguồn nước. Chính vì vậy, quản lý tài nguyên nước là nhân tố hàng đầu cho phát triển bền vững kinh tế – xã hội.

Nguồn tin: vtv.vn

Nguồn nước ô nhiễm có thể gây tổn thất tới 3,5% GDP mỗi năm

 

Khai thác nước phục vụ cho sinh hoạt phải nộp tiền

Sau gần 7 năm triển khai thực hiện Nghị định số 82/2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt được 681 quyết định tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền gần 10.200 tỷ đồng.

QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ ĐIỀU KIỆN NĂNG LỰC
Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (gọi tắt là Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước) gồm 05 Chương, 58 Điều.
Trong đó: Chương I: Những quy định chung; Chương II: Kê khai, đăng ký, cấp phép thăm dò, khai thác tài nguyên nước; Chương III: Hành nghề khoan nước dưới đất và dịch vụ về tài nguyên nước; Chương IV: Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và Chương V: Điều khoản thi hành.
Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước được xây dựng trên quan điểm quy định chi tiết những điều, khoản mà Luật đã giao cho Chính phủ, bảo đảm sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất với pháp luật về tài nguyên nước và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, kế thừa, giữ lại những quy định còn phù hợp, khắc phục những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định khác và những vấn đề vướng mắc phát sinh, tồn tại trong thực tiễn khi áp dụng các quy định của Luật tài nguyên nước 2012.

26.3
Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước được xây dựng theo hướng các quy định về thủ tục hành chính đảm bảo rõ ràng, cụ thể, minh bạch; đơn giản hoá thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bên cạnh đó, Dự thảo Nghị định quy định cụ thể các trường hợp đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khả thi, thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nước trong thực thi quy định pháp luật về tài nguyên nước, đồng thời nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Một trong những điểm đáng chú ý của Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước là đơn giản hoá thủ tục kê khai, đăng ký, cấp phép. Theo đó, các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ sinh hoạt sẽ phải thực hiện kê khai; các công trình khai thác nước dưới đất phục vụ một số mục đích có quy mô nhỏ; công trình đập ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch chỉ có mục đích ngăn mặn, tạo nguồn, chống ngập, tạo cảnh quan; các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch… sẽ phải thực hiện đăng ký thay vì phải lập hồ sơ đề nghị cấp phép như trước đây.
So với Luật tài nguyên nước 2012, Dự thảo Nghị định sẽ giảm số ngày thẩm định hồ sơ từ 45 ngày xuống còn 36 ngày đối với thủ tục cấp mới giấy phép và 40 ngày xuống còn 31 ngày đối với thủ tục điều chỉnh, gia hạn; thủ tục cấp lại giấy phép giảm 4 ngày, còn 16 ngày.
 Ngoài ra, Dự thảo Nghị định này là quy định cụ thể về điều kiện năng lực của tổ chức được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cung cấp dịch vụ về tài nguyên nước; Điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ cung cấp dịch vụ hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước; dịch vụ hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa, liên hồ chứa cũng như trách nhiệm của các tổ chức nêu trên đảm bảo trong quá trình thực thi. Để bảo đảm Luật tài nguyên nước được triển khai thi hành
Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp ý kiến, hoàn thiện và trình Bộ Tư pháp trong tháng này, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến trong thời gian tới.
ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC MIỄN TIỀN CẤP QUYỀN KHAI THÁC?
Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước có những điểm gì mới đáng chú ý? Những đối tượng nào sẽ phải nộp tiền cấp quyền khai thác nước?

26.3.1

Bà Nguyễn Thị Phương Hoa, trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài Nguyên và Môi trường

PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng phòng quản lý lưu vực sông Nam Trung Bộ, Cục quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài Nguyên và Môi trường về nội dung này:
PV: Xin bà cho biết những điểm mới của Dự thảo Nghị định về đăng ký, cấp phép, cấp quyền khai thác tài nguyên nước?
Bà Nguyễn Thị Phương Hoa: Các quy định liên quan về kê khai, đăng ký. Luật Tài nguyên nước 2023 quy định bổ sung thêm đối tượng kê khai là các hộ gia đình khai thác sử dụng nước dưới đất phục vụ cho mục đích sinh hoạt. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định quy định theo hướng kê khai rất đơn giản, trên ứng dụng điện tử, ứng dụng số. Bộ Tài nguyên Môi trường sẽ xây dựng App về tài nguyên nước và sau đó sẽ tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia.
Đối với việc đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước, ngoài trường hợp khai thác nước mặt quy mô vừa để sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, Luật Tài nguyên nước 2023 bổ sung một số trường hợp phải đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể  các trường hợp để đảm bảo tính thực thi.
Thứ nhất là các trường hợp khai thác, sử dụng nước dưới đất quy mô nhỏ để sử dụng cho các mục đích ngoài mục đích khai thác nước dưới đất hộ gia đình và cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phòng cháy chữa cháy...
Thứ hai, khai thác nước biển quy mô vừa để sử dụng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đảo và trên đất liền.
Thứ ba, các công trình ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch có quy mô vừa và nhỏ với mục đích tạo nguồn,  ngăn mặn, chống ngập hoặc tạo cảnh quan.
Thứ tư, những trường hợp sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, hồ chứa để cho hoạt động nuôi trồng thủy sản, kinh doanh, dịch vụ có quy mô không thuộc trường hợp quy mô nhỏ.
Thứ năm, các trường hợp đào sông suối, hồ, ao kênh mương, rạch để tạo không gian thu, trữ  nước, dẫn nước, tạo cảnh quan. Đối với tất cả các trường hợp đăng ký như tôi vừa nêu, trong quá trình khai thác, sử dụng mà có những trường hợp mà khai thác, sử dụng nước tiếp mà có quy mô mà thuộc trường hợp phải cấp phép thì cũng sẽ phải thực hiện việc cấp phép.
Ngoài ra, Dự thảo nghị định lần này quy định liên quan đến việc tạm dừng có thời hạn hiệu lực của giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác, sử dụng nước. Quyền lợi của họ là sẽ được giảm tiền cấp quyền khai thác nước trên cơ sở là trừ với số ngày mà họ dừng việc khai thác đó.
PV: Thưa bà, dự thảo nghị định bổ sung những trường hợp nào cần phải thu tiền cấp quyền khai thác nước và những trường hợp nào được miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước?
Bà Nguyễn Thị Phương Hoa: Dự thảo Nghị định bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, bao gồm khai thác nước mặt để phát điện cho mục đích thương mại và khai thác nước mặt, nước dưới đất để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản, cấp nước cho nông nghiệp và cấp cho sinh hoạt.
Đối tượng được miễn tiền cấp quyền khai thác nước là các trường hợp cấp nước cho sinh hoạt của người dân ở các khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn nhằm tạo điều kiện cho bà con ở những vùng sâu, vùng xa.
Ngoài ra, còn có hạng mục công trình khai thác nước đã được Chính phủ bảo lãnh và trường hợp các công trình khai thác, sử dụng nước trong thời gian bị hư hỏng và sự cố bất khả kháng dẫn đến không thể tiếp tục khai thác nước, buộc phải dừng việc khai thác.
Các đối tượng được giảm tiền cấp quyền khai thác, có 4 trường hợp. Bao gồm, các công trình khai thác nước phải cắt, giảm lượng nước khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu cắt giảm, đặc biệt trong trường hợp hạn hán thiếu nước, xâm nhập mặn; các công trình khai thác, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, tiết kiệm nước và đối với hồ chứa đã vận hành phải điều chỉnh, bổ sung dung tích phòng lũ cho hạ du so với nhiệm vụ của hồ chứa đã được phê duyệt.
PV: Vâng. Xin cảm ơn bà.
 PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, KHAI THÁC HIỆU QUẢ
Vì sao phải cần thiết ban hành Dự thảo Nghị định về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước? Nếu Nghị định được ban hành sẽ tác động xã hội ra sao? PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Thanh Tùng, nguyên Ủy viên thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
PV: Xin ông cho biết sự cần thiết ban hành nghị định quy đinh chi tiết về việc hành nghề khai thác nước, kê khai đăng ký cấp phép dịch vụ cấp quyền khai thác tài nguyên nước?
Ông Bùi Thanh Tùng: Luật Tài nguyên nước năm 2023 được tiếp cận với quan điểm rất mới, đó là coi nước là một nguồn tài nguyên, thứ 2 là quan điểm phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh phải bảo vệ nguồn nước, phải khai thác tiết kiệm, hiệu quả; thứ 3 vì nó là một nguồn tài nguyên cho nên cũng có thể coi là một loại hàng hóa và trong một số trường hợp khi khai thác, sử dụng thì vẫn phải thu tiền sử dụng nước.
Chính vì vậy Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định các nội dung liên quan đến bảo vệ nước dưới đất, hay quy định về việc kê khai, đăng ký, cấp phép đối với việc thăm dò, khai thác, sử dụng nước; quy định về tiền cấp quyền khai thác; về dịch vụ đối với tài nguyên nước. Cho nên Chính phủ phải ban hành nghị định để cụ thể hóa các nội dung trong Luật.
Cho nên Nghị định quy định chi tiết về việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai đăng ký cấp phép sử dụng tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là rất cần thiết.
PV: Dự thảo nghị định lần này cũng bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với nước sinh hoạt, nước cấp cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Ông có ý kiến gì về quy định này?
Ông Bùi Thanh Tùng: Khi thảo luận về Luật Tài nguyên nước trong năm 2023 cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, liên quan đến việc chúng ta đang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản thì tại sao bây giờ lại đưa ra khái niệm cấp quyền khai thác nước cho lĩnh vực này.
Tuy nhiên, sau rất nhiều thảo luận thì cũng đều thống nhất quan điểm là nếu chúng ta coi nước là một tài nguyên thì phải bảo vệ, phải sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và một trong những cách để vừa bảo vệ, vừa sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đó là chúng ta phải thu phí khai thác, hay thu tiền cấp quyền khai thác. Đương nhiên sản xuất nông nghiệp hay nuôi trồng thủy sản cũng là một hoạt động kinh tế và việc sử dụng tài nguyên để hoạt động kinh tế thì cũng cần phải trả một chi phí nhất định.
Tương tự như vậy thì nước sinh hoạt, hầu hết tại các đô thị lớn hiện nay thì người dân đang phải trả tiền cho nước sinh hoạt, thế thì không có lý do gì các công ty khai thác nước lại không phải trả tiền cấp quyền khai thác.
Tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng khi khai thác nước đều phải trả tiền cấp quyền khai thác. Ví dụ nếu lượng nước sử dụng không vượt quá 100m3/ngày đêm và đối với nước sinh hoạt tại địa bàn vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn thì không quá 200m3/ngày đêm thì cũng không phải làm thủ tục để cấp phép hay đăng ký khai thác.
Đối với hộ gia đình khi sử dụng nước phục vụ cho sinh hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản quy mô hộ gia đình thì cũng không phải đăng ký, không phải cấp phép, mà chỉ cần kê khai để giúp cơ quan quản lý có thể quản lý mức độ sử dụng cũng như quản lý một cách tổng thể tài nguyên nước của chúng ta đang được khai thác như thế nào mà thôi.
Như vậy việc chúng ta quy định về cấp phép tài nguyên nước chủ yếu nhằm vào các đối tượng là các tổ chức, cá nhân khai thác quy mô lớn, mang tính chất kinh doanh dịch vụ. Đó là điều công bằng và chúng ta cần phải làm.
PV: Theo ông, nếu Nghị định được ban hành thì sẽ có những tác động xã hội như thế nào?
Ông Bùi Thanh Tùng: Khi nghị định được ban hành chúng ta sẽ đạt được mấy điều, một là việc chúng ta đưa vào các quy định chặt chẽ hơn liên quan đến việc cấp phép đối với việc khai thác nước dưới đất là rất cần thiết để đảm bảo duy trì và bảo vệ nguồn nước ngầm, đặc biệt là ở một số đô thị lớn, nếu chúng ta không có sự kiểm soát chặt chẽ thì nguồn nước ngầm sẽ bị suy giảm nghiêm trọng.
Còn đối với việc cấp quyền khai thác cũng như quy đinh rõ các tổ chức, cá nhân khai thác nước sử dụng cho mục đích khác nhau phải được cấp phép, được đăng ký, được kê khai thì đấy chính là một cách để chúng ta quản lý tốt hơn việc sử dụng tài nguyên.
Đây là cách tiếp cận hoàn toàn đúng để chúng ta đảm bảo tính phát triển bền vững, để chúng ta có thể dành các tài nguyên rất quý là tài nguyên nước cho các thế hệ tương lai.
PV: Xin cảm ơn ông.
 

Nguồn tin: vovgiaothong.vn

Khai thác nước phục vụ cho sinh hoạt phải nộp tiền

 

Khẩu hiệu tuyên truyền Ngày Nước thế giới 22/3/2024

Ngày Nước thế giới 22/3/2024 được Liên hợp quốc phát động với chủ đề “Leveraging water for peace” – “Nước cho hòa hình”, tập trung vào vai trò quan trọng của tài nguyên nước đối với sự ổn định và thịnh vượng của thế giới.

Khi nguồn nước bị khan hiếm hoặc ô nhiễm, khi mọi người không có khả năng tiếp cận nước an toàn hoặc không được tiếp cận nước một cách bình đẳng, căng thẳng có thê gia tăng giữa những cộng đồng và các quốc gia. Theo báo cáo của Ủy ban về Nước của Liên hợp quốc (UN-Water), hiện có hơn 3 tỷ người trên toàn thế giới phụ thuộc vào nguồn nước xuyên biên giới, Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu và dân số toàn cầu tăng lên như hiện nay, chúng ta phải đoàn kết để bảo vệ và bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá nàỳ. Bằng cách cùng nhau hành động để cân bằng quyền con người và nhu cầu của mọi người về nước, nước có thể là động lực ổn định và là chất xúc tác cho sự phát triển bền vững hôm nay và mai sau.

14.03

Dưới đây là Một số khẩu hiệu tuyên truyền Ngày Nước thế giới 22/3/2024:
– Nước – Cầu nối tới hòa bình và thịnh vượng.
– Hợp tác vì nước, duy trì hòa bình, thịnh vượng và ổn định xã hội.
– Quản lý nước công bằng và bền vững góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.
– Cân bằng nhu cầu về nước là thước đo của sự phát triển.
– An ninh nguồn nước là nền tảng của hòa bình và thịnh vượng cho mọi quốc gia.
– Bảo vệ nguồn nước là bảo vệ chính cuộc sống chúng ta.
– Nếu tất cả chúng ta cùng chia sẻ, ai cùng sẽ có cơ hội sử dụng nước.

14.03.1

Nguồn: dwrm.gov.vn

Khẩu hiệu tuyên truyền Ngày Nước thế giới 22/3/2024

 

Bộ Tư pháp thẩm định dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2023

(TN&MT) - Ngày 8/3, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp đã tổ chức cuộc họp Hội đồng thẩm định dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2023. Bà Lê Thị Hoàng Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp và ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) - Đại diện cơ quan soạn thảo chủ trì cuộc họp.

12.3

Bà Lê Thị Hoàng Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp phát biểu tại cuộc họp

Báo cáo tại cuộc họp, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Hồng Hiếu cho biết, Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2023 tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Theo đó, Luật giao Chính phủ hướng dẫn 21 điều, khoản.

Sau khi Luật được Quốc hội thông qua, ngày 08/01/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật, Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp 6 tại Quyết định số 19/QĐ-TTg, trong đó đối với lĩnh vực tài nguyên nước, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng 2 Nghị định trình Chính phủ ban hành trước ngày 15/4/2024 và xây dựng 3 Thông tư phải ban hành trước 15/5/2024.

Đối với Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước, Chính phủ được giao hướng dẫn 16 nội dung, bao gồm: Quy định chi tiết Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia (Khoản 9 Điều 7); Quy định chi tiết hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước và quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước (Khoản 5 Điều 9 của Luật); Quy định chi tiết về tổ chức thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước (Khoản 6 Điều 10); Quy định chi tiết việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh và danh mục lưu vực sông liên tỉnh phải lập quy hoạch (Khoản 5 Điều 17); Quy định chi tiết việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh (Khoản 6 Điều 19);

12.1.1

Quang cảnh cuộc họp

Quy định chi tiết việc xác định phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước; quy định nguồn nước phải cắm mốc giới hành lang bảo vệ và việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ nguồn nước (Khoản 9 Điều 23); Quy định chi tiết ngưỡng khai thác nước dưới đất (Khoản 4 Điều 30); Quy định chi tiết việc khoanh định, công bố, điều chỉnh vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất (Khoản 5 Điều 31); Quy định chi tiết việc Điều hòa, phân phối tài nguyên nước (Khoản 8 Điều 35); Quy định chi tiết việc chuyển nước lưu vực sông và trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận nội dung về phương án chuyển nước (Khoản 3 Điều 37); Quy định chi tiết việc xây dựng quy trình vận hành, điều kiện yêu cầu vận hành theo thời gian thực và quy chế phối hợp vận hành hồ chứa trên bậc thang thủy điện (Khoản 10 Điều 38);

Quy định đối tượng, quy mô, chế độ, thông số, chỉ tiêu quan trắc, giám sát khai thác tài nguyên nước, chất lượng nước và lộ trình thực hiện (Khoản 3 Điều 51); Quy định chi tiết ao, hồ, đầm phá không được san lấp (K10 Điều 63); Quy định chi tiết đánh giá tác động và phương án thực hiện để bảo vệ, phòng chống, sạt, lở lòng bờ bãi sông (Khoản 6 Điều 66); Quy định chi tiết Hạch toán tài nguyên nước và lộ trình thực hiện (Khoản 5 Điều 71); Quy định chi tiết việc điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra và quy định tổ chức và hoạt động của tổ chức lưu vực sông (Khoản 5 Điều 81).

12.3.2

Các đại biểu đóng góp ý kiến cho dự thảo Nghị định

Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Hồng Hiếu, trên cơ sở các nội dung được giao trong Luật cùng với các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước và các pháp luật có liên quan, Cơ quan chủ trì soạn thảo đã xây dựng dự thảo các Nghị định song song với việc xây dựng Luật và hoàn thiện sau khi Luật được thông qua.

Theo đó, ngày 18/12/2023, Bộ TN&MT đã tổ chức họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập để thảo luận, góp ý để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo. Ngày 28/12/2023, dự thảo (lần 2) của Nghị định đã được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường để lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định và gửi lấy ý kiến góp ý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Hội, Hiệp hội và tổ chức chính trị - xã hội có liên quan và các tổ chức, cá nhân có khai thác, sử dụng nước lớn.

Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được 88/99 ý kiến phản hồi góp ý trong đó: Có 19/21 Bộ và cơ quan ngang Bộ có văn bản góp ý, trong đó có 05 Bộ nhất trí đối với nội dung của dự thảo; Có 62/63 địa phương có văn bản góp ý, trong đó có 06 địa phương nhất trí với nội dung của dự thảo; Có 7/15 ý kiến góp ý của các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp.

Cũng theo Phó Cục trưởng Nguyễn Hồng Hiếu, trên cơ sở tiếp thu ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thành dự thảo (lần 3) Nghị định và đã trình Bộ Tư pháp để tổ chức buổi họp thẩm định hôm nay.

Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đã nêu ý kiến đối với dự thảo Nghị định, trong đó tập trung vào sự cần thiết ban hành Nghị định; đối tượng, phạm vi điều chỉnh đối với dự thảo Nghị định; sự phù hợp của nội dung dự thảo Nghị định với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Nghị định với hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Các ý kiến thẩm định cũng góp ý một số nội dung cụ thể tại dự thảo Nghị định về: cơ sở đề xuất phân bổ, các nguồn chi cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước (Điều 9); quy định về tổ chức lưu vực sông; các quy định về cắm mốc hành lang bảo vệ hồ chứa thuỷ điện, thuỷ lợi; Rà soát, điều chỉnh Danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp (Điều 62); Quy định về vận hành hồ chứa theo thời gian thực; thời hạn thực hiện các thủ tục hành chính tại một số nội dung nêu tại dự thảo Nghị định; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Nghị định, nếu trong dự thảo Nghị định có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới; điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, tài chính để bảo đảm thi hành nghị định; ngôn ngữ, kỹ thuật và trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản;...12.3

Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước phát biểu tại cuộc họp

Báo cáo giải trình các nội dung phát biểu góp ý của Hội đồng thẩm định, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh bày tỏ cảm ơn và đánh giá cao các ý kiến phát biểu góp ý đối với dự thảo Nghị định. Cục trưởng Châu Trần Vĩnh cho biết, dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất với Luật Tài nguyên nước và các quy định của pháp luật khác có liên quan; kế thừa, giữ lại những quy định còn phù hợp tại các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước năm 2012, khắc phục những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, chỉ quy định chi tiết những điều, khoản mà Luật đã giao cho Chính phủ.

Cục trưởng Châu Trần Vĩnh cho rằng, các quy định về thủ tục hành chính trong nội dung Nghị định bảo đảm tính rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu và minh bạch. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể những nội dung còn tồn tại, vướng mắc trong các Nghị định quy định chi tiết Luật Tài nguyên nước năm 2012 và phù hợp với các quy định của Luật tài nguyên nước năm 2023, đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, khả thi, thuận lợi cho các ngành, các cấp, các cơ quan và đặc biệt là các tổ chức cá nhân khai thác sử dụng nước trong thực thi quy định pháp luật về tài nguyên nước, đồng thời nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Tại cuộc họp, bà Lê Thị Hoàng Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp đã tổng hợp ý kiến thẩm định của các thành viên Hội đồng và đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp thu đầy đủ những ý kiến của các thành viên; tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, hoàn thiện dự thảo đảm bảo tiến độ trình Chính phủ đúng thời hạn như quy định.

Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Bộ Tư pháp thẩm định dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2023

 
Trang 12345678910

Trang 2 trong tổng số 28 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay31
mod_vvisit_counterTrong tuần4186
mod_vvisit_counterTrong tháng13194
mod_vvisit_counterTất cả4104964

We have: 4 guests online