Tin trong nước

Kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất lưu vực sông Thạch Hãn tháng 4 năm 2025

Lưu vực sông Thạch Hãn là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, bao gồm tỉnh Quảng Trị với diện tích lưu vực 2.660 km². Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Tài nguyên nước dưới đất trên lưu vực sông bao gồm 2 tầng chứa nước chính là tầng chứa nước Holocen (qh) và tầng chứa nước Pleistocen (qp).

Tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước: tầng chứa nước Holocen (qh) là 515.511m3/ngày, tầng chứa nước Pleistocen (qp) là 212.099m3/ngày.

Tầng chứa nước Holocene (qh)

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với tháng 2 có xu thế hạ, có 3/4 công trình mực nước hạ, 1/4 công trình mực nước dâng. Giá trị hạ thấp nhất là 0,32m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9a-QT) và giá trị dâng là 0,27m tại xã Ngư Thủy Nam, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (QT14-QB).

Trong tháng 3: Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,66m tại xã Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (QT3a-QT) và sâu nhất là -6,52m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9a-QT).

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với cùng thời điểm 1 năm và 5 năm trước cho thấy mực nước có xu thế dâng. Diễn biến mực nước dưới đất dự báo tháng 4 so với mực nước thực đo tháng 3 có xu thế hạ, có 4/4 công trình mực nước hạ. Mực nước hạ từ 0,2 đến 0,5m tập trung ở huyện Gio Linh, huyện Triệu Phong.

Tầng chứa nước Pleistocene (qp)

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với tháng 2 có xu thế hạ, có 6/9 công trình mực nước hạ, có 3/9 công trình mực nước dâng hạ không đáng kể. Giá trị hạ thấp nhất là 0,32m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9b-QT).

Trong tháng 3: Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,24m tại xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (QT4-QT) và sâu nhất là -6,5m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9b-QT).

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với cùng thời điểm 1 năm trước cho thấy mực nước suy giảm lớn nhất là 0,28m tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Diễn biến mực nước dưới đất dự báo tháng 4 so với mực nước thực đo tháng 3 có xu thế hạ, có 9/9 công trình mực nước hạ. Mực nước hạ từ 0,2 đến 0,5m tập trung ở huyện Vĩnh Linh, huyện Triệu Phong, huyện Lệ Thủy.

Nguồn: DWRM
 

Kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất lưu vực sông Thạch Hãn tháng 4 năm 2025

 

Lượng nước về các sông miền Bắc thấp

Dự báo từ nay đến hết tháng 4, mưa xuất hiện nhiều hơn nhưng lưu lượng dòng chảy trên các sông của miền Bắc vẫn thấp hơn cùng kỳ các năm trước

Nhiều hồ chứa ở Bắc Kạn đang ở mực nước chết

Nước sông Lô cạn kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống

Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia nhận định, từ nay đến hết tháng 4, tổng lượng mưa các tỉnh vùng núi Bắc Bộ phổ biến trong khoảng 50-100mm, có nơi trên 120mm; tại các tỉnh trung du và đồng bằng phổ biến 30-70mm, có nơi trên 100mm.

Dự báo những ngày tới, lưu lượng dòng chảy trên các sông thấp hơn so với tuần vừa qua. Tổng lượng dòng chảy trên sông Thao tại Yên Bái thấp hơn trung bình nhiều năm (TBNN) cùng kỳ 62%, trên sông Lô tại Tuyên Quang thấp hơn TBNN cùng kỳ 59%.

Lưu lượng nước trên các sông miền Bắc đang thấp hơn so với trung bình nhiều năm. Ảnh minh họa.Lưu lượng nước trên các sông miền Bắc đang thấp hơn so với trung bình nhiều năm. Ảnh minh họa.

Lưu lượng nước trên các sông miền Bắc đang thấp hơn so với trung bình nhiều năm. Ảnh minh họa.

Trên sông Đà, lưu lượng dòng chảy đến hồ Hòa Bình tiếp tục dao động theo điều tiết phát điện của thủy điện tuyến trên, tổng lượng dòng chảy thấp hơn TBNN cùng kỳ 23%. 

Trên hệ thống sông Thái Bình, sông Lục Nam tại trạm Chũ đã xuất hiện giá trị mực nước thấp nhất cùng kì tháng 4. Lưu lượng dòng chảy trên sông Cầu và sông Lục Nam đang giảm sâu. Dự báo từ nay đến cuối tháng, tổng lượng dòng chảy trên sông Cầu tại Gia Bảy thấp hơn 68% so với TBNN cùng kỳ; trên sông Lục Nam tại Chũ ở mức thấp hơn TBNN cùng kì khoảng 90%.

Còn trên sông Hồng, tổng lượng dòng chảy trên sông Hồng tại trạm thủy văn Hà Nội thấp hơn TBNN cùng kỳ 13%.

Thời tiết Bắc Bộ được dự báo sẽ có mưa từ chiều tối 23-25/4, sau đó tạm ngắt và mưa trở lại từ chiều tối 27-29/4. Mưa rào và dông tập trung vào chiều tối và đêm, cục bộ có nơi mưa to. Nền nhiệt giảm và nắng nóng tạm thời kết thúc.

Cơ quan khí tượng thủy văn khuyến cáo người dân các địa phương cần theo dõi thời tiết và diễn biến nguồn nước để chủ động vấn đề tưới tiêu. Đặc biệt, hiện nay là giai đoạn chuyển mùa nên cần lưu ý những hiện tượng thời tiết cực đoan như dông, lốc, gió giật mạnh, mưa đá có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây thiệt hại đến sản xuất.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

Lượng nước về các sông miền Bắc thấp

 

Đề xuất dành từ 3-5% tổng diện tích trồng lúa ĐBSCL để đào hồ trữ nước

Kiên Giang Nếu dành từ 3-5% tổng diện tích trồng lúa để đào hồ, có thể tích trữ được 1,1 - 1,82 tỷ m3 nước, giúp ĐBSCL ứng phó hiệu quả với hạn hán, xâm nhập mặn. 

Hồ chứa lớn - Giải pháp giữ nước ngọt cho ĐBSCL

Xây hồ trữ nước 183 tỷ đồng cho hơn 260.000 người

Đề phòng thiếu nước ở vùng ngoài công trình thủy lợi

Đó là đề xuất được chuyên gia nông nghiệp - TS Nguyễn Đăng Nghĩa nêu ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức tại Kiên Giang mới đây.

Chuyên gia nông nghiệp - TS. Nguyễn Đăng Nghĩa trình bày tham luận tại hội thảo và đề xuất giải pháp dành quỹ đất đào hồ phân tán tích trữ nước ngọt giúp ĐBSCL ứng phó hiệu quả với hạn hán, xâm nhập mặn. Ảnh: Trung Chánh.Chuyên gia nông nghiệp - TS. Nguyễn Đăng Nghĩa trình bày tham luận tại hội thảo và đề xuất giải pháp dành quỹ đất đào hồ phân tán tích trữ nước ngọt giúp ĐBSCL ứng phó hiệu quả với hạn hán, xâm nhập mặn. Ảnh: Trung Chánh.

Chuyên gia nông nghiệp - TS. Nguyễn Đăng Nghĩa trình bày tham luận tại hội thảo và đề xuất giải pháp dành quỹ đất đào hồ phân tán tích trữ nước ngọt giúp ĐBSCL ứng phó hiệu quả với hạn hán, xâm nhập mặn. Ảnh: Trung Chánh.

Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa, ĐBSCL chiếm 12% diện tích tự nhiên, gần 20% dân số, đóng góp 17% GDP cả nước, 47% diện tích trồng lúa, 56% sản lượng lương thực, 90% lượng gạo xuất khẩu, 60% sản phẩm thủy sản xuất khẩu của nước ta.

Đây chính là vùng kinh tế trọng điểm, bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước. Thế nhưng, ĐBSCL đang phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là biến đổi khi hậu, gây hạn hán, xâm nhập mặn, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều rủi ro, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp thật căn cơ để ứng phó với những khó khăn mà ĐBSCL đã và sẽ tiếp tục phải hứng chịu.

Một hồ chứa nước được tỉnh Kiên Giang đào từ đất nông nghiệp, giúp tích trữ nước ngọt ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn hiệu quả tại các huyện ven biển vùng U Minh Thượng. Ảnh: Trung Chánh.Một hồ chứa nước được tỉnh Kiên Giang đào từ đất nông nghiệp, giúp tích trữ nước ngọt ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn hiệu quả tại các huyện ven biển vùng U Minh Thượng. Ảnh: Trung Chánh.

Một hồ chứa nước được tỉnh Kiên Giang đào từ đất nông nghiệp, giúp tích trữ nước ngọt ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn hiệu quả tại các huyện ven biển vùng U Minh Thượng. Ảnh: Trung Chánh.

Chỉ tính riêng đợt hạn, mặn lịch sử năm 2015-2016 đã gây thiệt hại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng chục ngàn hộ dân. Trong 4 tháng đầu năm 2016, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đã làm mất trắng khá nhiều diện tích lúa vụ đông xuân và khó có thể tiếp tục canh tác trong vụ hè thu tiếp theo ngay sau đó, do thiếu nước ngọt.

 

Ngoài ra, nguy cơ ngập lụt có thể phát triển diện rộng vào thời điểm từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 11 dương lịch hàng năm. Như vậy, bài toán đặt ra là phải đào hồ tích trữ và điều tiết nguồn nước ngọt của dòng Mekong từ thượng nguồn đổ về, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hiệu quả.

Toàn vùng ĐBSCL hiện có 1,82 triệu ha đất phục vụ trồng lúa, trong đó có 1,7 triệu ha chuyên canh lúa, 185.000 ha luân canh lúa - rau màu và  240.000 ha luân canh lúa - thủy sản. Chỉ cần dành ra từ 3-5% tổng diện tích trồng lúa để đào hồ chứa nước ngọt dọc theo 2 bên bờ sông Tiền và sông Hậu thì chúng ta sẽ có từ 54.600 - 91.000 ha mặt nước. Nếu đào hồ chứa có chiều sâu 2m thì mỗi năm sau khi lũ đổ về chúng ta đã tích trữ được từ 1,1 - 1,82 tỷ m3 nước ngọt để phục vụ cho tưới tiêu cây trồng cạn hoặc canh tác lúa nếu gặp hạn hán.

TS Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, việc dành một phần quỹ đất để đào hồ tích trữ nước không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng lúa, có thể được bù đắp nhờ tăng hiệu quả nông học, đồng thời tạo ra mặt nước để nuôi thủy sản, tạo thêm nguồn thu nhập. Ảnh: Trung Chánh.TS Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, việc dành một phần quỹ đất để đào hồ tích trữ nước không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng lúa, có thể được bù đắp nhờ tăng hiệu quả nông học, đồng thời tạo ra mặt nước để nuôi thủy sản, tạo thêm nguồn thu nhập. Ảnh: Trung Chánh.

TS Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, việc dành một phần quỹ đất để đào hồ tích trữ nước không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng lúa, có thể được bù đắp nhờ tăng hiệu quả nông học, đồng thời tạo ra mặt nước để nuôi thủy sản, tạo thêm nguồn thu nhập. Ảnh: Trung Chánh.

Ngoài ra, với tổng diện tích mặt nước và tổng khối lượng nước được tích trữ sẽ góp phần làm giảm áp lực và chiều sâu ngập lũ tại các vùng trũng ở ĐBSCL như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên… Đồng thời, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta có thêm một lượng diện tích mặt nước không nhỏ để phục vụ cho việc nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Với tổng diện tích mặt nước như vậy cũng sẽ góp phần cải thiện môi trường và tiểu khí hậu tại ĐBSCL.

Với kinh nghiệm gần 40 năm hoạt động nghiên cứu khoa học và xâm nhập thực tế sản xuất nông nghiệp tại các tỉnh phía Nam, TS Nguyễn Đăng Nghĩa hy vọng giải pháp ông đề xuất được Chính phủ, các bộ, ngành chức năng và lãnh đạo các tỉnh, thành trong vùng quan tâm, góp phần duy trì và tiếp tục phát triển sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả tại ĐBSCL.

TS Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, việc dành ra 3-5% tổng diện tích trồng lúa phục vụ cho giải pháp đào hồ phân tán tích trữ nước ngọt không ảnh hưởng nhiều đến sản lượng lúa. Thậm chí, vẫn có thể giữ vững sản lượng lúa của vùng nhờ vào việc cải thiện và nâng cao hiệu quả nông học và tăng hiệu quả kinh tế cho sản xuất nông nghiệp.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

Đề xuất dành từ 3-5% tổng diện tích trồng lúa ĐBSCL để đào hồ trữ nước

 

Nước sông Lô cạn kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống

Hiện nay mực nước sông Lô trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang chỉ đạt 11,25m, đây là mực nước thấp nhất trong lịch sử được ghi nhận.

FAO hỗ trợ công cụ đánh giá tác động của hạn hán vùng Tây Nguyên

Đóng cống, trữ nước bảo vệ 133.000ha đất nông nghiệp mùa hạn mặn

Mực nước sông Lô đoạn qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang cạn kỷ lục. Ảnh: Đào Thanh.Mực nước sông Lô đoạn qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang cạn kỷ lục. Ảnh: Đào Thanh.

Mực nước sông Lô đoạn qua địa bàn tỉnh Tuyên Quang cạn kỷ lục. Ảnh: Đào Thanh.

Theo thông tin từ Đài Khí tượng và Thủy văn tỉnh Tuyên Quang, mực nước sông Lô đoạn qua thành phố Tuyên Quang trong những ngày qua chỉ đạt 11,25m. Đây là mức nước thấp nhất trong lịch sử được ghi nhận, thấp hơn mực nước cạn của năm 2023 tới 18cm. Tình trạng này đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, đời sống của người dân vùng hạ du cũng như môi trường sinh thái của các loài thủy sản.

Dọc theo tuyến sông Lô, nhiều ngôi làng làm nghề chài lưới, nuôi cá lồng tại phường Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang; xã Tân Long, huyện Yên Sơn; xã Bình Xa, Thái Hòa, huyện Hàm Yên; xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa… đang gặp không ít khó khăn. Nhiều hộ dân buộc phải di chuyển lồng cá ra giữa dòng để đảm bảo nguồn nước đủ cho cá sinh sống và phát triển. Tuy nhiên, việc di chuyển này tốn nhiều công sức, chi phí, đồng thời gây áp lực lớn lên sinh kế của các hộ nuôi trồng thủy sản.

Một ngôi nhà nổi nằm chênh vênh trên cạn do mực nước sông Lô xuống thấp. Ảnh: Đào Thanh.Một ngôi nhà nổi nằm chênh vênh trên cạn do mực nước sông Lô xuống thấp. Ảnh: Đào Thanh.

Một ngôi nhà nổi nằm chênh vênh trên cạn do mực nước sông Lô xuống thấp. Ảnh: Đào Thanh.

Theo nhận định của các chuyên gia khí tượng thủy văn, tình trạng khô hạn năm nay chịu tác động mạnh của hiện tượng El Nino, khiến lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn sinh thủy của hệ thống sông, suối trên địa bàn.

Trước tình hình trên, Đài Khí tượng và Thủy văn tỉnh Tuyên Quang khuyến cáo các tổ chức, cá nhân cần theo dõi sát bản tin dự báo thời tiết, cảnh báo nắng nóng để có giải pháp chủ động trong sản xuất và sinh hoạt, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiếu nước gây ra. Chính quyền địa phương và các ngành chức năng cũng đang tích cực vào cuộc để hỗ trợ người dân ứng phó với tình trạng hạn hán kéo dài, bảo vệ sản xuất và sinh kế bền vững.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

Nước sông Lô cạn kỷ lục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống

 

Quản lý nguồn nước bền vững trở thành yêu cầu cấp bách

Nhân Ngày Nước thế giới (22/3), Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Nguyễn Minh Khuyến chia sẻ về các giải pháp để quản lý bền vững tài nguyên nước.

Đại sứ Israel tại Việt Nam chia sẻ giải pháp quản lý nước hiệu quả

Hướng dẫn tổ chức 3 ngày kỷ niệm quan trọng trong tháng 3

Cộng đồng 'bắt tay trách nhiệm' bảo vệ tài nguyên nước

Ngày Nước thế giới không chỉ là dịp nâng cao nhận thức, mà còn là lời kêu gọi mạnh mẽ về các chính sách và hành động cụ thể nhằm bảo vệ nguồn nước.

Tại Việt Nam, dù sở hữu hệ thống sông ngòi phong phú, nhưng tình trạng khai thác nước quá mức và ô nhiễm ngày càng gia tăng, đặt ra những thách thức nghiêm trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước ngày càng lớn, quản lý tài nguyên nước bền vững không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết.

Nhân dịp Ngày Nước thế giới (22/3), phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với TS.Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường để làm rõ hơn về vấn đề này.

TS Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.TS Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.

TS Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Thưa ông, Ngày Nước thế giới (22/3) năm 2025 được Liên hợp quốc phát động ̣với chủ đề “Glacier preservation - Bảo tồn các dòng sông băng”. Căn cứ chủ đề tuyên truyền của thế giới và tình hình hiện nay, năm nay lĩnh vực tài nguyên nước Việt Nam sẽ tập trung vào nội dung gì?

Ông Nguyễn Minh Khuyến: Ngày Nước thế giới 22/3/2025 được Liên hợp quốc (UN) phát động ̣với chủ đề "Glacier preservation" - "Bảo tồn các dòng sông băng" nhằm nâng cao nhận thức toàn cầu về vai trò quan trọng của sông băng, tuyết và băng trong hệ thống khí hậu và chu trình thủy văn của Trái đất. Ngày Nước thế giới năm nay cũng khuyến khích trao đổi kiến thức và các hoạt động thực hành tốt nhất liên quan đến các chiến lược bảo tồn và thích ứng với sông băng. 

Tại Việt Nam, tài nguyên nước phụ thuộc nhiều vào các nguồn nước quốc tế và đang đứng trước thách thức về an ninh nguồn nước. Vì vậy, chủ đề tuyên truyền Ngày Nước thế giới năm nay đã được cụ thể hóa thành “Bảo tồn và phục hồi các dòng sông”, hướng tới thích ứng với tình trạng nguồn nước suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên nước mà còn giúp Việt Nam hợp tác với các quốc gia trong khu vực để quản lý nguồn nước một cách cân bằng, thống nhất, đảm bảo an ninh nguồn nước và phát triển bền vững. 

Để hưởng ứng Ngày Nước thế giới năm 2025, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường tuyên truyền, phổ biến về vai trò tầm quan trọng của nguồn nước trong phát triển kinh tế cũng như các thông điệp về sử dụng tài nguyên nước hợp lý để phát triển bền vững; an ninh nguồn nước là nền tảng của hòa bình và thịnh vượng cho mọi quốc gia; các sông băng và tảng băng lưu trữ khoảng 70% lượng nước ngọt cần thiết cho con người.

Đặc biệt, trong nhiều năm qua, Cục Quản lý tài nguyên nước đã và đang tham mưu cho Bộ trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách liên quan đến an ninh nguồn nước được quy định tại Luật Tài nguyên nước 2023, trong đó có chính sách về bảo an ninh nguồn nước và tổ chức triển khai nhiều hoạt động cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước, hướng tới sử dụng bền vững tài nguyên nước.

Hay nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, thống nhất giữa số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu là những nguyên tắc cơ bản và tối ưu mà Việt Nam và các nước trên thế giới vẫn đang áp dụng trong quản lý tài nguyên nước. 

Hợp tác quốc tế – chìa khóa bảo vệ nguồn nước xuyên biên giới

Rõ ràng, Ngày Nước thế giới 2025 không chỉ là dịp để kêu gọi bảo vệ tài nguyên nước, mà còn là cơ hội để thể hiện sự đoàn kết quốc tế. Vậy Cục Quản lý tài nguyên nước đã tham gia những hoạt động hợp tác quốc tế nào để góp phần bảo vệ các dòng sông?

Ông Nguyễn Minh Khuyến: Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên nước luôn là vấn đề hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, gia tăng nhu cầu sử dụng nước và ô nhiễm nguồn nước ngày càng diễn ra phức tạp như hiện nay và Việt Nam có khoảng 60% lượng nước được sản sinh từ ngoài biên giới.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang làm tương đối tốt trong việc hợp tác với các nước trong  khu vực sông Mekong. Đặc biệt là Hiệp định Mekong năm 1995, nhằm giải quyết các vấn đề về tài nguyên nước hạ du sông Mekong. Trong đó, 4 nước (Lào, Việt Nam, Thái Lan, Campuchia) đã hợp tác cùng nhau khai thác, chia sẻ nguồn nước sông Mekong.

Đoàn Việt Nam tham gia Phiên họp Hội đồng Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 31. Ảnh: Thu Hương.Đoàn Việt Nam tham gia Phiên họp Hội đồng Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 31. Ảnh: Thu Hương.

Đoàn Việt Nam tham gia Phiên họp Hội đồng Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 31. Ảnh: Thu Hương.

Ngoài ra, từ năm 2014, Chủ tịch nước đã ký Quyết định về việc Việt Nam tham gia Công ước về việc sử dụng nguồn nước cho các mục đích phi giao thông thủy. Theo đó, Việt Nam là thành viên thứ 35 tham gia công ước để đảm bảo công ước có hiệu lực. Triển khai công ước này, có rất nhiều nội dung cần phải thực hiện để đảm bảo được sử dụng các nguồn nước cho mục đích phi giao thông thủy giữa các quốc gia có chung nguồn nước, đảm bảo hài hòa được lợi ích công bằng, chia sẻ giữa các nước thượng du và hạ du.

Về hợp tác với các quốc gia khác, chúng tôi cũng thực hiện  rà soát, nghiên cứu, xem xét đề xuất các cấp cao hơn trong việc tham gia  Công ước  về bảo vệ và sử dụng các nguồn nước xuyên biên giới (Công ước Helsinki 1992) và các hồ quốc tế của Ủy ban Kinh tế Châu Âu của Liên Hợp quốc (UNECE Water Convention) để có những tiếng nói chung, thúc đẩy việc quản lý chung và bảo tồn các hệ sinh thái của nguồn nước ngọt xuyên biên giới. Trong đó, Công ước cũng yêu cầu các bên ngăn chặn, kiểm soát hoặc giảm thiểu tác động xuyên biên giới, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới theo cách hợp lý và công bằng, đảm bảo quản lý bền vững các nguồn nước này.

Đặc biệt, Cục Quản lý tài nguyên nước đã có nhiều cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt các nhiệm vụ hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế, bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao và theo tinh thần của Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và Chỉ thị số 25/CT-BTT ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương; đã tích cực hợp tác với các đối tác phát triển triển khai các kế hoạch, chương trình, hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp với nhu cầu thực tế.

Nổi bật, với vai trò là Trưởng nhóm tài nguyên nước của ASEAN tại Việt Nam, đã tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác ASEAN về tài nguyên nước như tham gia hội nghị, hội thảo và đóng góp ý kiến chuyên môn cho các hoạt động trong nhóm.

Cùng với đó, Cục đã phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai có hiệu quả, tích cực các nội dung hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các đối tác phát triển quốc tế, tích cực tìm kiếm, mở rộng xây dựng quan hệ với các đối tác mới có tiềm năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước, đồng thời có lợi ích trong việc hỗ trợ phát triển, quản lý sử dụng và khai thác bền vững tài nguyên nước, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật hướng tới quản lý hiệu quả tài nguyên nước, đặc biệt là quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số.

Quy hoạch tài nguyên nước để phát triển bền vững

Về vấn đề quy hoạch. Hiện nay, giải pháp triển khai quy hoạch tài nguyên nước trên các lưu vực sông lớn đã được Thủ tướng chính phủ ban hành. Tại Hội nghị giao ban công tác tháng 2 vừa qua, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cũng đã có ý kiến với Cục Quản lý tài nguyên nước về việc sớm hoàn thiện trình phê duyệt các quy hoạch lưu vực sông, kịch bản nguồn nước. Xin ông cho biết, vấn đề này đang được triển khai ra sao và việc này có ý nghĩa như thế nào để quản lý tài nguyên nước bền vững, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, thưa ông?

Ông Nguyễn Minh Khuyến: Triển khai Luật Tài nguyên nước 2023, Cục quản lý tài nguyên nước đã tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức thực hiện nhiều hoạt động trong đó có công bố Kịch bản nguồn nước, trình Chính phủ phê duyệt 10 quy hoạch về tài nguyên nước gồm: 1 Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia; 8 Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh và 1 Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước. Dự kiến năm 2025, 5 Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh còn lại sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành công bố 8 Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành công bố 8 Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành công bố 8 Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.

Đặc biệt, trong năm 2024, các đơn vị đã quyết tâm hoàn thành việc xây dựng, trình Bộ công bố 8 kịch bản nguồn nước (lần đầu) để chủ động trong việc điều hoà, sử dụng nước trên các lưu vực sông, gồm: Hồng - Thái Bình, Cửu Long, Bằng Giang Kỳ Cùng, Mã, Hương, Sê San, Serepok, Đồng Nai. Các kịch bản được công bố sẽ phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân. Đồng thời, làm căn cứ để các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với kịch bản nguồn nước.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước ngày càng gia tăng, quản lý tài nguyên nước bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu cấp bách. Đặc biệt, việc triển khai quy hoạch tài nguyên nước các lưu vực sông đang đặt ra những đòi hỏi mới về công cụ quản lý, phương pháp tiếp cận và nguồn lực thực hiện. Sự kết hợp giữa chính sách đúng đắn, công nghệ hiện đại và sự đồng thuận của cộng đồng sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam bảo vệ và khai thác tài nguyên nước hiệu quả, bền vững, vì một tương lai thịnh vượng và an toàn.

Để giải quyết bài toán này, chuyển đổi số được xem là chìa khóa quan trọng. Đây không chỉ là công cụ hỗ trợ quản lý hiệu quả mà còn là nền tảng cho việc ra quyết định nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chi phí nhân lực.

Quản lý tài nguyên nước bền vững theo quy hoạch lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.Quản lý tài nguyên nước bền vững theo quy hoạch lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.

Quản lý tài nguyên nước bền vững theo quy hoạch lưu vực sông. Ảnh: minh hoạ.

Hiện nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đang nghiên cứu thí điểm việc quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số thông qua việc thí điểm xã hội hóa, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia và hệ thống hỗ trợ ra quyết định trên các lưu vực sông để cơ quan quản lý nhà nước sử dụng, thuê dịch vụ nhằm điều hòa, phân phối tài nguyên nước cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên các lưu vực sông và giảm thiểu chi phí, nhân lực của nhà nước.

Cùng với đó, Cục cũng sẽ tiếp tục tăng cường giám sát, chỉ đạo việc vận hành các hồ chứa lớn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu xây dựng hoàn thiện các quy trình vận hành liên hồ chứa theo thời gian thực bảo đảm an toàn công trình hạ du, tối ưu hóa việc sử dụng hiệu quả nguồn nước cho các mục đích sử dụng.

Quản lý tài nguyên nước bền vững theo quy hoạch lưu vực sông không chỉ là một giải pháp kỹ thuật mà còn là chiến lược dài hạn, đảm bảo an ninh nước quốc gia, bảo vệ hệ sinh thái và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với sự quyết tâm từ Chính phủ, sự đồng lòng của người dân và ứng dụng mạnh mẽ các giải pháp công nghệ, trong tương lai, tài nguyên nước Việt Nam chắc chắn sẽ được quản lý một cách hiệu quả và bền vững.

Xin cảm ơn ông!

Ngun: baonongnghiepvamoitruong.vn

Quản lý nguồn nước bền vững trở thành yêu cầu cấp bách

 
Trang 12345678910

Trang 2 trong tổng số 41 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay204
mod_vvisit_counterTrong tuần8492
mod_vvisit_counterTrong tháng3950
mod_vvisit_counterTất cả7684103

We have: 20 guests online