WARAPO - Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ tài nguyên nước
Cảnh báo an ninh nguồn nước của châu Âu đang bị đe dọa
Thứ ba, 22 Tháng 10 2024 09:00

Ảnh minh họa: CNN

Ảnh minh họa: CNN

Ô nhiễm, suy thoái môi trường sống, biến đổi khí hậu và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang khiến hơn 60% lượng nước mặt của châu Âu ở tình trạng xấu.

Nguồn nước mặt là nguồn nước tồn tại trên bề mặt Trái Đất như ao, hồ, sông, suối....

Trong báo cáo được công bố ngày 15/10, Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA) đã phân tích 120.000 vùng nước mặt và 3,8 triệu km2 khu vực nước ngầm tại 19 quốc gia của Liên minh châu Âu (EU) và Na Uy. Kết quả cho thấy chỉ có 37% các vùng nước mặt của châu Âu đạt tiêu chuẩn về chất lượng sinh thái, tức ở mức "tốt" hoặc "cao".  Đây là con số đáng lo ngại cho thấy tình trạng suy thoái nghiêm trọng của các hệ sinh thái sông, hồ và biển. Nguyên nhân chủ yếu do ô nhiễm không khí, như việc đốt than và khí thải từ ô tô, cũng như các hoạt động nông nghiệp, nơi chất thải đổ ra làm ô nhiễm đất.

Ảnh minh họa: CNN
Dữ liệu do các quốc gia thành viên EU báo cáo trong giai đoạn 2015-2021 cũng cho thấy chỉ có 29% các vùng nước mặt đạt tiêu chuẩn về chất lượng hóa học ở mức "tốt", nghĩa là không bị ô nhiễm quá mức từ các chất dinh dưỡng hóa học và các chất độc hại như "hóa chất vĩnh cửu" PFAS và vi nhựa.

Nguồn nước ngầm của châu Âu - nguồn cung cấp nước chính cho lục địa này - có kết quả khả quan hơn, với 77% vùng nước ngầm đạt tiêu chuẩn hóa học ở mức "tốt".

EEA cho biết các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm hạn hán và lũ lụt khắc nghiệt, và việc khai thác quá mức các nguồn nước ngọt đang gây sức ép lên các hồ, sông, vùng nước ven biển và nước ngầm của châu Âu ở mức "chưa từng có". Cơ quan này khuyến cáo ngành nông nghiệp châu Âu cần tăng cường sử dụng các phương thức canh tác theo hướng hữu cơ và thúc đẩy nông nghiệp sinh thái bền vững, kết hợp với sự thay đổi trong thói quen ăn uống của người dân. Các chính phủ cũng được khuyến nghị ưu tiên giảm lượng nước tiêu thụ và khôi phục hệ sinh thái, đặc biệt cần giảm 50% việc sử dụng thuốc trừ sâu từ nay đến năm 2030.

Nguồn: Đài Trang (TTXVN)

 
Kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất lưu vực sông Thạch Hãn tháng 4 năm 2025
Thứ ba, 29 Tháng 4 2025 16:21

Lưu vực sông Thạch Hãn là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, bao gồm tỉnh Quảng Trị với diện tích lưu vực 2.660 km². Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Tài nguyên nước dưới đất trên lưu vực sông bao gồm 2 tầng chứa nước chính là tầng chứa nước Holocen (qh) và tầng chứa nước Pleistocen (qp).

Tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước: tầng chứa nước Holocen (qh) là 515.511m3/ngày, tầng chứa nước Pleistocen (qp) là 212.099m3/ngày.

Tầng chứa nước Holocene (qh)

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với tháng 2 có xu thế hạ, có 3/4 công trình mực nước hạ, 1/4 công trình mực nước dâng. Giá trị hạ thấp nhất là 0,32m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9a-QT) và giá trị dâng là 0,27m tại xã Ngư Thủy Nam, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (QT14-QB).

Trong tháng 3: Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,66m tại xã Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (QT3a-QT) và sâu nhất là -6,52m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9a-QT).

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với cùng thời điểm 1 năm và 5 năm trước cho thấy mực nước có xu thế dâng. Diễn biến mực nước dưới đất dự báo tháng 4 so với mực nước thực đo tháng 3 có xu thế hạ, có 4/4 công trình mực nước hạ. Mực nước hạ từ 0,2 đến 0,5m tập trung ở huyện Gio Linh, huyện Triệu Phong.

Tầng chứa nước Pleistocene (qp)

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với tháng 2 có xu thế hạ, có 6/9 công trình mực nước hạ, có 3/9 công trình mực nước dâng hạ không đáng kể. Giá trị hạ thấp nhất là 0,32m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9b-QT).

Trong tháng 3: Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,24m tại xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (QT4-QT) và sâu nhất là -6,5m tại xã Hải Lệ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (QT9b-QT).

Diễn biến mực nước dưới đất trung bình tháng 3 so với cùng thời điểm 1 năm trước cho thấy mực nước suy giảm lớn nhất là 0,28m tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Diễn biến mực nước dưới đất dự báo tháng 4 so với mực nước thực đo tháng 3 có xu thế hạ, có 9/9 công trình mực nước hạ. Mực nước hạ từ 0,2 đến 0,5m tập trung ở huyện Vĩnh Linh, huyện Triệu Phong, huyện Lệ Thủy.

Nguồn: DWRM
 

 
QUẢN TRỊ TÀI NGUYÊN NƯỚC TRÊN NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ SỐ
Thứ hai, 12 Tháng 5 2025 16:13

Luật tài nguyên nước đầu tiên được ban hành văò năm 1998, trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, đến năm 2023 được sửa đổi bổ sung hoàn thiện đánh dấu bước ngoặt trong công tác quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Trong đó, Chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước là hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực trong công tác quản lý tài nguyên nước. Từ khi Luật tài nguyên nước 2023 có hiệu lực thi hành, Bộ Nông nghêịp và Môi trường đã có chỉ đạo quyết liệt trong công tác áp dụng thành tựu khoa học công nghệ trong quản lý tài nguyên nước nhằm sử dụng nguồn lực một cách hiệu lực, hiệu quả nhất là trong công tác giám sát tài nguyên nước, vận hành liên hồ chứa, dự báo hạn hán thiếu nước, kịch bản nguồn nước, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia đảm bảo “Đúng, đủ, sạch, sống”.

GIÁM SÁT TÀI NGUYÊN NUYÊN NƯỚC TRÊN NỀN TẢNG IoT

Chia sẻ tại Phiên họp Tiểu ban chuyên đề số 3 về môi trường, tài nguyên nước và viễn thám trong khuôn khổ Hội nghị triển khai “Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” diễn ra vào chiều ngày 10/5 tại tỉnh Bắc Ninh, TS. Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, nhận thức được việc đẩy mạnh áp dụng các giải pháp, công nghệ tiên tiến nhằm quản lý tài nguyên nước hiệu quả, trong đó chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài nguyên nước là yêu cầu cấp thiết, từ năm 2018, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với Cục Chuyển đổi số và Thông tin dữ liệu tài nguyên môi trường triển khai xây dựng Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước (https://iot.monre.gov.vn/tnn/).

TS. Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước chia sẻ tại Phiên họp Tiểu ban chuyên đề số 3 về môi trường, tài nguyên nước và viễn thám

Với các mục tiêu được đặt ra bao gồm: Theo dõi, giám sát trực tuyến các công trình khai thác, sử dụng nước mặt; công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất do Bộ TN&MT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp phép (giám sát theo giấy phép); Thiết kế dựa trên các chuẩn mở để đảm bảo vấn đề kết nối, liên thông, tích hợp và chia sẻ thông tin, dữ liệu với các hệ thống của 63 tỉnh/ thành phố trên cả nước; Kết nối, liên thông được với hệ thống hiện có về quan trắc lưu lượng, mực nước, chất lượng nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa đã ban hành; Cập nhật tự động hoặc thủ công các thông tin (lưu lượng, mực nước, chất lượng nước và hình ảnh) vào hệ thống phục vụ giám sát, cảnh báo.

Giao diện Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nướcMô hình Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước

Tính đến cuối tháng 4/2025, hệ thống đã cập nhật được tổng cộng 13.507 giấy phép tài nguyên nước các loại lên hệ thống, trong đó có 2.270 giấy phép cấp Bộ và 11.237 giấy phép cấp Tỉnh.

Bên cạnh đó, triển khai thực hiện Thông tư số 17/2021/TT-BTNMT ngày 14/10/2021 quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước và Nghị định 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước, tính đến hết tháng 4/2025 đã có 58 Sở Nông nghiệp và Môi trường triển khai cập nhật, kết nối thông tin của giấy phép tài nguyên nước địa phương vào cơ sở dữ liệu về thông tin giấy phép tài nguyên nước dùng chung của trung ương.

Cùng với đó, tính đến tháng 4/2025, Hệ thống giám sát tài nguyên nước đã có 831 công trình khai thác tài nguyên nước thuộc đối tượng cấp phép của Bộ NN&MT đăng ký, kết nối truyền dữ liệu về hệ thống. Trong đó, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phê duyệt kết nối thành công để truyền dữ liệu về hệ thống đối với 810 công trình (công trình nước mặt: 697 công trình; công trình nước dưới đất: 111 công trình; nước biển: 02 công trình).

Hệ thống giám sát tài nguyên nước được xây dựng và đi vào vận hành đã mang lại những kết quả ban đầu, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý tại Trung ương và các địa phương. Từ dữ liệu của các công trình kết nối, truyền về Hệ thống giám sát tài nguyên nước Trung ương đã góp phần đắc lực cho công tác quản lý điều hành, ra quyết định phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Cục Quản lý Tài nguyên nước như: Thu nhận và lưu trữ dữ liệu từ các trạm quan trắc của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước đảm bảo thuận lợi, hiệu quả, nhanh chóng; Tổng hợp, phân tích và xây dựng các biểu đồ, đồ thị liên quan; Thống kê dữ liệu theo thời gian, loại hình, theo đơn vị hành chính, lưu vực sông; Tìm kiếm và quản lý thông tin; Hiện thị các trạm quan trắc trên bản đồ; Đưa ra cảnh báo, thông báo khi có dấu hiệu chuẩn bị vượt ngưỡng hoặc khi đã vượt ngưỡng quy định; Trích xuất dữ liệu, xây dựng báo cáo về danh sách và thông tin về công trình đã kết nối.

Giao diện phân hệ cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép tài nguyên nướcGiao diện phân hệ giám sát tài nguyên nước 

VẬN HÀNH QUY TRÌNH VẬN HÀNH LIÊN HỒ CHỨA TRÊN NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ SỐ VÀ IoT

Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 60 của Luật tài nguyên nước 2012 và khoản 7 Điều 38 của Luật tài nguyên nước 2023 thì Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng, điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng và hoàn thiện 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông lớn, quan trọng (các quy trình được rà soát, cập nhật thường xuyên). Sau khi được ban hành, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc vận hành của các hồ chứa theo quy định của các Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Với tổng số khoảng 134 hồ chứa, đập dâng trên 11 lưu vực sông được điều tiết, vận hành theo cơ chế liên hồ với nguyên tắc ưu tiên hàng đầu trong mùa lũ là đảm bảo an toàn công trình, cắt, giảm lũ cho hạ du ưu tiên duy trì dòng chảy tối thiểu, cấp nước hạ du phục vụ hoạt động sản xuất và dân sinh trong mùa cạn.

Giao diện hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa 

Để đáp ứng các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đang sử dụng hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, được xây dựng từ năm 2015 (https://quanly.dwrm.gov.vn/hochua). Hệ thống hiện tại đã tiếp nhận số liệu vận hành của hơn 134 hồ chứa thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông, bao gồm: sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Kôn - Hà Thanh, sông Ba, sông Sê San, sông Srepok và sông Đồng Nai.

Những thông tin cần thiết để phục vụ quá trình theo dõi, kiểm tra việc vận hành các hồ theo các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa, làm cơ sở trong công tác chỉ đạo, điều hành việc vận hành các hồ theo Quy trình vận hành liên hồ chứa, gồm: (1) Số liệu mực quan trắc nước hồ, lưu lượng đến hồ, lưu lượng xả qua đập, lưu lượng xả qua phát điện; (2) Số liệu quan trắc lưu lượng, mực nước và các thời điểm mực nước tại các Trạm thủy văn đạt giá trị mực nước theo các cấp báo động và đạt các giá trị mực nước quy định trong các Quy trình vận hành liên hồ chứa; các bản tin dự báo, cảnh báo,…

Các chủ hồ thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông phải cung cấp thường xuyên dữ liệu vận hành tại công trình vào hệ thống.

Các thông tin, số liệu vận hành mà các đơn vị quản lý vận hành các hồ chứa cập nhật lên hệ thống là cơ sở quan trọng trong việc phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông và là cơ sở để Cục Quản lý tài nguyên nước kịp thời đôn đốc, hướng dẫn các chủ hồ thực hiện nghiêm túc việc vận hành đảm bảo cắt, giảm lũ cho hạ du và phối hợp vận hành, điều tiết hồ chứa đảm bảo cấp nước cho hạ du trong trong mùa cạn, các thời kỳ xảy ra hạn hán thiếu nước trên các lưu vực sông và theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa thông qua hình thức văn bản, điện thoại, email,... (hàng năm đã gửi trên 100 văn bản đến các chủ hồ, các địa phương để đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo công tác vận hành).

Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thường xuyên cung cấp các bản tin dự báo, cảnh báo kịp thời đến các địa phương, các chủ hồ; đôn đốc việc nghiêm túc thực hiện các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa. Cử đoàn công tác đi khảo sát thực tế tại các vùng bị ngập, lụt tại một số tỉnh, thành phố; giải đáp, hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc trong việc điều hành các hồ chứa theo Quy trình. Đối với mùa cạn, cử các đoàn công tác làm việc với các địa phương để thống nhất phương án chỉ đạo, điều tiết nước các hồ chứa, đặc biệt là trong những thời gian xảy ra hạn hán thiếu nước để đảm bảo việc vận hành các hồ chứa cung cấp đủ nước cho hạ du các lưu vực sông.

XÂY DỰNG BẢN ĐỒ HẠN HÁN, THIẾU NƯỚC THEO THỜI GIAN THỰC

Các lưu vực sông, nhất là vùng hạ du như Hồng - Thái Bình, Đồng Nai - Sài Gòn là những khu vực trọng điểm về kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh lương thực và an ninh nguồn nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với nhu cầu khai thác và sử dụng nước gia tăng nhanh chóng, nguồn nước trên các lưu vực sông đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng.

Trước thực trạng đó, việc chủ động xây dựng kịch bản nguồn nước là yêu cầu cấp thiết, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Kịch bản nguồn nước, (ví dụ như kịch bản hạn trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình) không chỉ cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo nguy cơ hạn hán mà còn hỗ trợ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Khuyến cũng cho biết, để xây dựng bản đồ hạn hán, thiếu nước và kịch bản nguồn nước ứng dụng đồng bộ các công nghệ chuyển đổi số hiện đại, đơn vị đã thu thập và xử lý dữ liệu lớn (Big Data) được cập nhập liên tục, bao gồm: số liệu mưa, dòng chảy, lượng nước hồ chứa, mực nước dưới đất và nhu cầu sử dụng nước...

Việc ứng dụng mô hình số cho phép tất cả dữ liệu được tích hợp vào hệ thống quản lý tập trung, cho phép cập nhật, đồng bộ và truy xuất nhanh chóng. Xây dựng và áp dụng tổ hợp các mô hình số dự báo mưa hạn mùa để dự báo lượng mưa cho 6 tháng tiếp theo nhằm cung cấp thông tin cho các kịch bản.

Để xây dựng bản đồ hạn, đơn vị còn áp dụng mô hình thủy văn dự báo dòng chảy, biến trình mực nước tại các hồ chứa. Sử dụng các phương pháp/thuật toán để phân tích xu thế hạn hán, đánh giá nguy cơ thiếu nước theo vùng, tiểu vùng.

Dựa trên kết quả mô phỏng, các vùng được chia theo mức độ thiếu hụt nước: nhẹ, trung bình, nghiêm trọng. Trên nền tảng GIS, bản đồ hạn được thiết kế. Các vùng hạn được thể hiện trực quan trên bản đồ số, giúp người dùng dễ dàng nhận biết khu vực bị ảnh hưởng, mức độ nghiêm trọng và diễn biến theo thời gian.

 

Cùng với việc xây dựng bản đồ hạn hán, các cơ quan quản lý tài nguyên nước thuộc Bộ NN&MT còn xây dựng các kịch bản nguồn nước. Các kịch bản được thiết lập dựa trên xu thế lượng mưa (so với TBNN, các năm gần đây,..), xu thế dòng chảy, tổng lượng nước tích trữ ở các hồ chứa thủy điện, mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất và nhu cầu khai thác, sử dụng của các ngành. Từ đó, phân tích tác động của từng kịch bản đến cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, thủy điện.

Các sản phẩm nổi bật của quá trình chuyển đổi số trong công tác xây dựng bản đồ hạn hán, thiếu nước và kịch bản nguồn nước lĩnh vực tài nguyên nước, đó là:

  • Bản tin/bản đồ dự báo mưa hạn mùa: Cập nhật định kỳ hằng tháng, cung cấp thông tin về xu thế lượng mưa. Từ đó đưa ra cảnh báo thiếu lượng mưa.

  • Bản tin/bản đồ dự báo dòng chảy, hồ chứa: Dự báo xu thế mưa, đưa ra xu thế dòng chảy các sông chính, lượng nước tích trữ tại các hồ lớn nhằm cảnh báo sớm cho các địa phương, ngành sản xuất chủ động ứng phó với tình trạng thiếu nước.

  • Bản đồ hạn hán theo vùng, theo thời gian: Hiển thị các khu vực bị thiếu nước.

  • Nguồn: DWRM
 
Hội nghị cán bộ – viên chức năm 2023 của Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ tài nguyên nước
Thứ hai, 29 Tháng 1 2024 10:30

Sáng ngày 27 tháng 01 năm 2024, tại Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ tài nguyên nước đã tổ chức Hội nghị cán bộ – viên chức năm 2023. Chủ trì Hội nghị Ông Nguyễn Văn Giang - Phó Bí thư Chi Bộ - Phó Giám đốc Trung tâm, Ông Trần Văn Dũng - Phó Giám đốc Trung tâm, Bà Tống Thủy Nguyên - Chủ tịch Công đoàn, cùng toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động Trung tâm.

Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2023 và kế hoạch nhiệm vụ năm 2024 của Trung tâm, Ông Trấn Văn Dũng – Phó Giám đốc cho biết, năm 2023 Trung tâm đã hoàn thành tốt 01 nhiệm vụ Chính phủ, 01 nhiệm vụ đặc thù, 03 nhiệm vụ sự nghiệp môi trường được giao. Trong năm 2024 trung tâm tập trung thực hiện đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả các nhiệm vụ, đề tài theo kế hoạch được giao.

27.1.4

Tiếp đó, Bà Bùi Thị Thanh Thủy - Chánh văn phòng - Phó chủ tịch Công đoàn đọc báo cáo tổng kết công tác năm 2023 và nhiệm vụ 2024 của Công Đoàn Trung tâm.

27.1.3

Tại Hội nghị ông Nguyễn Văn Giang đã tiếp thu ý kiến đóng góp của các cán bộ, viên chức, giải đáp những thắc mắc, đề nghị của cán bộ, viên chức Trung tâm, bàn các biện pháp cải tiến điều kiện làm việc, nâng cao đời sống của cán bộ, viên chức Trung tâm. Ông Nguyễn Văn Giang đánh giá năm 2023, Trung tâm đã làm tốt chức năng quản lý, vận hành sát với thực tế. Các cán bộ công nhân viên của Trung tâm đã lao động sản xuất trên mọi mặt trận bằng những hoạt động có thu. Phó Giám đốc mong rằng trong năm tới toàn thể cán bộ – viên chức Trung tâm tiếp tục phát huy năng lực, tập trung trí tuệ, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Trung tâm ngày càng lớn mạnh.

27.1

Tại Hội nghị, Đơn vị cũng phát động phong trào thi đua năm 2024 - năm với nhiều khó khăn, thách thức, xong có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với nhiều nhiệm vụ mới, cùng với yêu cầu chủ động mở rộng thị trường, tăng số lượng nhiệm vụ B, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tài Nguyên Môi trường và Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước quốc gia, Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ tài nguyên nước phát động phong trào thi đua ngành Tài nguyên môi trường với Chủ đề năm 2024 là “Kỷ cương trách nhiệm, kịp thời, tăng tốc, sáng tạo”, và Phong trào thi đua “Chào mừng kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ Tài nguyên nước”.

Một số hình ảnh tại hội nghị:

27.1.827.1.627.1.1

Nguồn: Admin Warapo

 
Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao: Tác động và giải pháp
Thứ hai, 14 Tháng 10 2024 08:40

Mực nước biển dâng cao đang gây ra mối đe dọa toàn cầu, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến điều này và chúng ta có thể ứng phó như thế nào?

Chú thích ảnhBăng trôi gần đảo Kulusuk, Greenland. Ảnh: AFP/TTXVN

Theo Đài phát thanh Quốc tế Deutsche Welle (Đức), mực nước biển dâng cao đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với cuộc sống trên hành tinh, đặc biệt là đối với các đảo thấp và các thành phố ven biển. Câu hỏi đặt ra là: Biến đổi khí hậu có phải là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này?

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã nhấn mạnh rằng “đại dương đang tràn bờ” trong chuyến thăm Tonga gần đây, chỉ ra rằng nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Nam Thái Bình Dương, đang phải đối mặt với nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo các nghiên cứu, mực nước biển toàn cầu đã tăng nhanh hơn kể từ đầu thế kỷ 20, với tốc độ ngày càng gia tăng trong những thập kỷ gần đây. Từ năm 1880 đến nay, mực nước biển đã dâng cao hơn 20 cm, và các nhà khoa học dự đoán nếu không có biện pháp ngăn chặn, mức nước có thể tăng thêm từ 38 cm đến 56 cm vào năm 2100.

Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến các đảo nhỏ mà còn đe dọa gần 40% dân số thế giới sống gần các khu vực ven biển, với khoảng 900 triệu người đang sinh sống trong những khu vực dễ bị tổn thương. Những thành phố lớn như Cairo, Lagos, Los Angeles, Mumbai và London đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng liên quan đến xói mòn bờ biển, ngập lụt và bão tàn phá.

Nguyên nhân chính của sự gia tăng mực nước biển là hiện tượng nóng lên toàn cầu, chủ yếu do sự gia tăng khí nhà kính trong khí quyển. Các khí như carbon dioxide và mê-tan từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch làm nhiệt độ đại dương tăng lên. Từ năm 1970, đại dương đã hấp thụ khoảng 90% lượng khí thải từ sự nóng lên toàn cầu. Nhiệt độ đại dương năm 2023 được ghi nhận là mức cao nhất từ trước đến nay, làm cho nước biển giãn nở và tăng thể tích. Bên cạnh đó, sự tan chảy của băng ở Nam Cực và Greenland cũng góp phần làm mực nước biển dâng cao. Trung bình, mỗi năm có khoảng 150 tỷ tấn băng từ Nam Cực và 270 tỷ tấn từ Greenland bị mất do nhiệt độ tăng.

Các báo cáo gần đây còn cảnh báo về “điểm tới hạn” của khí hậu, khi mà nhiệt độ toàn cầu tăng vượt quá 1,5 độ C có thể dẫn đến sự tan chảy không thể đảo ngược của các tảng băng lớn, gây ra tác động nghiêm trọng đến mực nước biển. Những khu vực như đồng bằng châu thổ ven sông và các khu vực ven biển của các nước châu Á như Bangladesh, Ấn Độ và Trung Quốc đang ở trong tình trạng báo động cao.

Để đối phó với mực nước biển dâng cao, điều cần thiết là giảm nhanh chóng lượng khí thải. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là sự gia tăng mực nước biển ở một mức độ nào đó là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả khi thế giới ngừng phát thải khí nhà kính ngay lập tức, vẫn sẽ có độ trễ trong việc tác động của nóng lên toàn cầu đến nhiệt độ đại dương và băng tan.

Các quốc gia trên toàn cầu đang áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để thích ứng. Một số biện pháp đơn giản và dựa vào thiên nhiên bao gồm ngăn chặn xói mòn bờ biển bằng cách tái sinh rừng ngập mặn ở Cameroon hoặc xây dựng các bức tường chắn sóng biển ở Senegal. Đối với những khu vực dễ bị tổn thương như các đảo nhỏ, nhiều nơi đã thực hiện các giải pháp cực đoan hơn như di dời dân cư lên các vùng đất cao hơn như ở ở Fiji hoặc xây dựng các thành phố nổi ở Maldives và lấn biển ở Tuvalu.

Ngoài ra, việc hỗ trợ tài chính cho các quốc gia đang phát triển để ứng phó với tình trạng này cũng rất quan trọng. Những giải pháp toàn cầu cần được thực hiện đồng bộ và khẩn trương để bảo vệ không chỉ các cộng đồng ven biển mà còn cả môi trường sống của con người trên toàn cầu.

Nguồn: baotintuc.vn

 
Trang 12345678910

Trang 5 trong tổng số 33 trang

Video sự kiện

You need Flash player 6+ and JavaScript enabled to view this video.

Playlist: 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23

1.2024

2.2024

 

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Tài nguyên và Môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay1461
mod_vvisit_counterTrong tuần2397
mod_vvisit_counterTrong tháng4704
mod_vvisit_counterTất cả7625037

We have: 6 guests online